giác linh Người,
Hỡi ôi!
Kính quý thay!
Bi xót thay!
Sinh diệt tợ đốm hoa
Sắc không như ánh chớp
Đám mây trắng ngàn năm ly hợp
Cõi bụi hồng muôn kiếp tụ tan
Hậu học sa-môn thương tiếc, bàng hoàng
Tứ
chúng đoanh vây, trái tim lệ chảy
Lẽ
vô thường xót đau ba cõi
Luật
hữu vi băng giá một trời
Trưởng
lão ra đi,
Núi
non tâm, đạo đức cao ngời
Sông
biển trí, nhân văn bát ngát
Chẳng
lẽ từ đây
Đúng
thời mạt pháp
Cành
nhánh khô gầy
Cỗi
gốc cũng điêu linh
Nhìn
đăm đăm trang giấy vô tình,
Không
nói được tấm lòng bi điếu
Tay
run mỏi, chữ thừa, lời thiếu
Dẫu
mưa rơi, sương rỉ chương ngàn
Bút
lẽ nào, tre chẻ Lĩnh Nam!
Mực
không thể, nước đong Đông Hải!
Người
đã trải lá bối
Dệt
vầng trăng
Thiên
thu soi đuốc tuệ
Ánh
chớp hiện, nghi dung đại sĩ
Đốm
hoa lưu, linh ảnh chân nhân
Thoáng
trăm năm đại nguyện vi trần
Đàm
hoa rụng thơm hương,
Lại
rơi, lại rơi...
Rơi
vào dòng bất tử...
Trưởng
lão ra đi
Cỗi
tùng già lá xanh bật khóc
Đất
thiền lâm hiu hắt giọt sương khô
Dòng
nước xao, hình núi lặng tờ
Làn
mây thoảng, ánh sao vời vợi!
Hỡi
ôi!
Nhớ
giác linh xưa
Thế
danh Đinh Văn Nam
Sinh
năm Mậu Ngọ
Nguyên
quán Kim Khuê
Nghi
Lộc, Nghệ An
Từ
nhỏ lớn lên
Nuôi
chí sách đèn
Năm
ba chín lấy bằng cao đẳng
Và
sự học, thuyền êm, biển lặng
Một
chín bốn mươi lại đỗ tú toàn
Bởi
cơm, bởi áo - làm việc tòa khâm
Vì
nước, vì dân - dốc lòng phụng sự
Ngày
cau mặt, xót điều phi lý
Đêm
nhức đầu, đau chuyện bất công
Bởi
vậy cho nên
Bỏ
cửa quan, quay gót, rảnh lòng
Rời
đường hoạn, phủi tay, lìa bụi
Rồi
từ đó
Hiểu
nghiệp quả, ra công học Phật
Biết
duyên đời, gắng sức nghiên kinh
Sáng
lập đoàn Đức Dục thanh niên
Lại
dựng xây gia đình Hóa Phổ
Hiểu
sức mạnh tăng sinh tuổi trẻ
Chung
tay lo học viện Kim Sơn
Rồi
lại thêm Báo Quốc học đường
Không
mệt mỏi ươm mầm giáo pháp
Năm
bốn sáu xuất gia đầu Phật
Chùa
Tường Vân, cố Tăng Thống ân sư
Bút
mực, sách đèn - sớm tối kinh thư
Rau
muối, tương dưa - tháng ngày công hạnh
Năm
bốn chín, duyên tu thuận cảnh
Báo
Quốc giới đàn minh chứng thập sư
Đặc
cách thọ tam đàn cụ túc tỳ-khưu
Minh
Châu pháp tự,
Viên
Dung pháp hiệu
Tâm
bồ-đề từ đây kiên cường, vững chãi
Ghé
hội, đoàn - rèn tâm giảng pháp
Đến
chùa, am - tập trí bàn kinh
Những
tháng, những năm
Tạp
chí Viên Âm,
Tạp
chí Từ Quang... góp bài viết đạo tình
Chọn
ý ngọc gieo ươm chánh tín
Lựa
lời châu bày tỏ duyên căn
Trường
trung học Bồ Đề - hiệu trưởng đầu tiên
Với
giới nghi, đầu tròn, áo vuông
Bằng
mô phạm, mắt xanh, viên trắng
Gót
nhập thế, đạo đời tương đẳng
Đuốc
từ bi, lặng lẽ lên đường
Một
chín năm hai, đạt nguyện xuất dương
Đến
Thiên Trúc tìm thầy học đạo
Gương
Nghĩa Tịnh ngời soi Bắc quốc
Trăng
Huyền Tráng chiếu rọi Nam bang
Vò
võ đất nghèo, pháp học ra công
Quạnh
quẽ phòng đơn, quặng vàng thử lửa
Thấy
cám dỗ, nhẹ nhàng đóng cửa
Nghe
rủ rê, thanh thản quay lưng
Gian
khổ nhiều năm, nuôi chí hạc hồng
Bay
vạn dặm câu kinh, con chữ
Anh,
Hán ra sức nghiên tầm,
Saṅskrit
- Pāḷi, cố công đối so cổ ngữ
Quyết
mò châu đáy biển từ nguyên
Tay
mỏi, mắt đau
Tìm
cho ra giọt nước trinh tuyền
Tự
suối nguồn trong ngần giáo pháp
Chẳng
nệ hà thử thách,
Nào
sá quản gian lao
Cay
đắng, chát chua – quả vị ngọt ngào
Cơ
cực, khó khăn – hoa hương vi diệu
Hai
cử nhân Pāḷi - Anh dấu son khoa biểu
Cao
học A-tỳ-đàm nhẹ lấy thủ khoa
Đỗ
tiến sĩ Phật học,
Văn
học Pāḷi – đứng đệ nhất tòa
Tổng
thống Ấn Độ đích thân trao bằng danh dự
Đại
học Tích Lan, thêm bằng pháp sư bổ xứ
Là
sa-môn Việt đầu tiên xuất sắc nguyên khôi
Cầm
đuốc tiên phong học thuật sáng ngời
Lấy
duệ trí phát quang con đường đại học
Một
chín sáu tư lên tàu về nước
Rồi
trọn tuổi trời lá bối chép kinh
“Thị
nghiệp” một đời “duy tuệ” đăng trình...
Hỡi
ôi!
Nhớgiác
linh xưa
tịch
mịch con đường
Thềkhông
đổi chí khí kiên cường
Nguyện
chẳng rời kinh văn dị giản
Cửa
tùng đôi cánh gài
Dịch
kinh trên lá chuối
Bông
mây rụng áo phơi
Giữa
đời xa phiền não
Trong
phố dựng già-lam
Nhuận
văn, hương ngát cõi
Soạn
sách, bút thơm lan
Chầu
thiền, câu xanh mớm
Nghe
giảng, vượn trắng dòm
Dầu
can qua biến động
Dẫu
rào cản trùng vây
Xem
cát chạy, đá bay
Ngắm
sóng dồn, gió dập
Cay
cay mắt - bụi mây vinh nhục
Xót
xót tai - lời gió thị phi
Đời
tối, đêm đen, đội chữ mà đi
Phụng
hiến nhân văn, lương sư hưng quốc
Gương
Vạn Hạnh, trụ thiền chống cột
Hộpháp
ba triều, xã tắc bình yên
Hiềnđức,
hiền tài, nguyên khí càn khôn
Đã
vạn quyển khuyên son
Đã
trăm kinh thắp lửa
Đêm cô tịch đốt đèn soi ngữ nghĩa
Thương
Tăng Ni kinh chữ mượn vay
Đâu quản cao sơn, gió lạnh lắt lay
Chẳng nệ bối kinh, chợ chiều bạc bẽo
Bút chánh pháp kế thừa ân di giáo
Thoảng ngoài tai tám pháp thế gian!
Đã liễu tri định luật bất toàn
Đã giác ngộ căn nhân khổ đế
Nên việc đến, tùy duyên xử sự
Gió qua rồi ruột trúc rỗng không
Mỉm danh thân - gió sóng phiêu bồng!
Cười sự nghiệp - sương mây phiếu diễu!
Đại trí giữa đời, cung đàn lạc điệu
Sao lẻ đêm đông, buốt lạnh thái hư!
Trưởng lão ra đi, an lạc nhiên như
Tăng Ni hậu học, tàn che cô quạnh
Giữa cát bụi, ngời soi giáo hạnh
Trong sa mù, rạng chiếu chân dung
Tâm nhân giả, lợi danh khô lạnh
Đức trượng phu, tài sắc rỗng rang
Năng lượng từ bi, hòa ái, dịu dàng
Bởi thế cho nên
Quyền biến cơ tuỳ
Thân hành, ngôn giáo
Chân
dung sáng, nụ cười hoan hỷ
Khiêm
hư một đời
Lặng
lẽ bóng hoà trăng
Mà
hãy thôi
Chẳng
hữu chẳng thường
Không
sinh không diệt
Cánh hạc vàng thiên thu bái biệt
Thiên hà ngôn tai
Vạn sự như lai
Giác linh đã như lai như khứ...
Đê
đầu kính điếu
Hậu
học sa môn
Huế -Thu sương trắng
Rừng Thiền Huyền Không Sơn Thượng
Tỳ-khưu Giới Đức
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Chú
thích:
1-
Xem “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của GS Lê Mạnh Thát
2-
Sách đã dẫn trên.
3-
Bảy tình: Hỷ, nộ, ái ố, ai, lạc, dục
4-
Ba độc tham, sân, si.
5- Từ câu thơ của vua Trần Thái
Tông: “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, nhật viễn gia hương vạn lý trình”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét