LỜI GIỚI THIỆU
Những câu chuyện và các ca khúc của
Milarepa được ưa chuộng và rất phổ biến ở Tây Tạng. Thế nhưng bên ngoài lãnh thổ
này thì quá ít điều được biết về vị Thánh vĩ đại này của Phật Giáo. Một phần hoặc
toàn bộ các ghi chép về cuộc đời ông đã được xuất bản bằng Anh ngữ, Pháp ngữ và
Đức ngữ; nhưng một số lớn ca khúc của ông chỉ mới được tiếp cận trong thời gian
gần đây, trừ những ai đọc được Tạng ngữ. Sáu mươi bài ca về Dhamma (Pháp) của
ông có thể được tái bản ở đây là nhờ sự cho phép nhiệt tình của dịch giả Giáo sư
C. C. Chang, và ân huệ của nhà xuất bản University Books Inc, New York.
Các ca khúc được ấn hành ở đây đều
nói về Dhamma phổ quát trong toàn bộ truyền thống Phật giáo. Những ai đã đọc một
số bài thuyết pháp của đức Phật trong kinh điển Pali sẽ thấy rằng chủ đề được
nói đến trong các bài ca này rất quen thuộc với họ. Trong văn học Pali, cách tiếp
cận gần gũi nhất các bài Pháp ca này của Milarepa chính là những pháp thoại vi
diệu của đức Phật trong Sutta Nipata, Udana và Itivuttaka (và cả trong
Dhammapada), cũng như các thi kệ huyền mật của các tỳ-kheo và tỳ-kheo ni trong
Tăng-già thời đức Phật, được kết tập trong Theragatha và Therigatha. Trong số
các tỳ-kheo thời đức Phật, Vangisa Thera nổi bật về các pháp thoại vi diệu (xem
Samyutta Nik.I.viii; Theragatha 395). Cái tâm được gợi hứng và soi sáng bởi tri
kiến về giải thoát (vimukti) dễ dàng tuôn chảy dòng trí huệ của chính nó thành
các vần thơ có vẻ đẹp vĩ đại và ý nghĩa sâu thẳm. Đó là trường hợp của đức Phật
và một số đệ tử của Ngài, và sau đó, là trường hợp của Milarepa.
Ở đây, các ca khúc của ông được sắp
xếp theo chủ đề; mặc dù không thể nào phân loại sít sao vì có nhiều bài bàn đến
không chỉ một khía cạnh của Dhamma. Trước hết là các miêu tả của Milarepa về một
số nơi ẩn tu của ông, kế đến là các bài ca về hạnh xả ly và các nguy hiểm của
Samsara, tiếp theo là nhiều ca khúc nữa về vô thường. Sau loạt bài này là các
bài miêu tả các phương diện khác nhau của Samsara - như Sáu Cảnh giới tái sinh;
sinh, già, bệnh, chết; những người thân thích và của cải. Kế đến là các bài
liên quan đến sự tu tập - lời khuyên về cách tu tập và các cảnh báo về những điều
không nên làm; rồi về Sáu Ba-la-mật và các phẩm tính khác lợi ích cho sự tu tập
như tâm Từ (Metta), Tinh tấn (Viriya) và Nhiếp niệm (Sati). Sau hết là các ca
khúc nói về sự chứng ngộ của Milarepa - sự hoan hỷ, an lạc và xả ly của ông - kết
thúc bằng những lời cầu chúc của ông cho các thí chủ.
Từ chuỗi liệt kê trên, chúng ta sẽ
thấy rằng Giáo pháp ở đây chẳng xa lạ chút nào với Theravada. Cũng như
Theravada, nội hàm của các ca khúc này là sự Vô thường (anicca) của tất cả các
sự vật, các trạng thái, con người, nơi chốn; tất cả đều không thường hằng vì
chúng sinh khởi dựa vào các duyên (paccaya); những gì do duyên, và vì thế là tương
đối, thì cũng trống rỗng một thực thể (sabbe dhamma anatta) và trống rỗng tự
ngã (suñña); và vì không nhận chân được các sự thật này, vì suy nghĩ bằng cái
thường, cái tự ngã, v.v., mà cuối cùng chúng ta phải kinh qua nỗi chung thân Bất
mãn (unending Unsatisfactoriness, dukkha). Milarepa cũng chỉ ra Con Đường vượt
qua dukkha và nhấn mạnh việc trì Giới (sila), tập trung cái tâm tán loạn
(samadhi) và sự phát triển Trí huệ (pañña).
Khi đối chiếu các dị biệt của các
truyền thống Phật giáo khác nhau thì những điểm tương đồng thường có khuynh hướng
hiển lộ. Có thể đề cập đến một điểm tương đồng ở đây; đó là sự bày tỏ lòng kính
ngưỡng và vinh hạnh vô biên đối với các bậc Thầy Giác Ngộ trong bất cứ truyền
thống Phật giáo nào, một niềm kính ngưỡng và vinh dự vượt ra ngoài mọi sai biệt
của không gian và thời gian. Một người đã nhìn thấy và liễu triệt Con Đường từ
chính kinh nghiệm tự thân luôn luôn được tán dương là bậc xứng đáng với vinh hạnh
cao cả nhất và niềm tin tưởng vĩ đại nhất, như các vị Ahuneyyo, Pahuneyyo,
Dakkhineyyo, Anjalikaraniyo, ở trong Pali. Thật vậy, chúng ta tìm thấy điều này
trong nhiều trang kinh Pali cũng như trong Hundred Thousand Songs. Và chúng ta
hay biết nhiều về điều này qua tín tâm cao tột của Pingiya (Sutta Nipata 1131
ff.) cũng như qua những lời ca tán thán của Rechungpa và Gambopa, những người học
trò thân thiết của Milarepa. Ngày nay, điều này cũng được tìm thấy trong những
hoàn cảnh dường như khác hẳn nhau - hoặc trong một tùng lâm ở Thái-lan, nơi một
tỳ-kheo thudong (dhutanga) đang kính ngưỡng vị Thầy của mình; hay các tỳ-kheo
hay cư sỹ Tây tạng đang đón nhận sự truyền tâm từ các Lama của họ. Cũng cùng một
tín tâm được biểu tỏ ở đây; tín tâm này được gọi là Saddha hay Bhatti (bhakti -
từ ngữ xuất hiện lần đầu tiên trong văn học Ấn-độ trong Kinh tạng Pali), bởi vì
đây là hành động của một người chưa giác ngộ, một người đang đặt trái tim mình
lên sự Giác ngộ trước sự chứng kiến của một con người Giác ngộ.
Rổi Hundred Thousand Songs còn
nhiều lần đề cập đến sự "truyền thừa vi mật" các huấn thị về thiền của
vị Thầy, trong trường hợp này là Milarepa, cho các học trò của mình. Với một số
người thì điều này tương phản với phát biểu của đức Phật khi nói rằng Ngài
không phải là một người Thầy có "bàn tay nắm lại", hàm ý một vị thầy
muốn giữ bí mật hay biệt truyền những Giáo pháp nào đó. Tuy nhiên, đức Phật vốn
nổi tiếng về khả năng đặc biệt có thể thuyết giảng một cách chính xác Chính
Pháp phù hợp với hoàn cảnh và đáp ứng được sự hiểu biết của thính chúng. Ngài
không dạy các sự thật sâu xa về Dhamma cho những ai chưa chuẩn bị đón nhận; và
theo cách tương tợ, Milarepa đã phân cấp các lời dạy của mình cho các hoàn cảnh
và khả năng tri nhận khác nhau.
Các huấn thị về thiền mà đức Phật
đã trao truyền cho các đệ tử của Ngài cũng phải phù hợp với tâm tính và năng lực
của họ. Thật vậy, ngày này một người có thể đọc những cuốn sách viết về các
nguyên tắc hành thiền trong Phật giáo Theravada; thế nhưng, chỉ với sách vở
không thôi, cho dù người đó có đọc hết kinh điển Pali thì những khó khăn còn lại
vẫn rất lớn. Tất cả các nước Phật giáo đều cho rằng để việc tập thiền thật sự
thành công thì ta phải có một vị Thầy. Chính vị Thầy này, cũng như đức Phật
trong thời quá khứ, truyền đạt cho ta các chi tiết tu tập và thể thức ứng dụng
sự tu tập vào các hoàn cảnh và vấn đề đặc biệt của ta. Như Bhadanta Nyanaponika
Mahathera đã viết trong "Heart of Buddhist Meditation" (Trái Tim của
Thiền định Phật giáo):
"Một phát biểu vắn tắt về
thiền tập, cho dù chỉ giới hạn vào những bước sơ khởi như đang thực hành ở đây,
cũng không thể thay cho sự hướng dẫn trực tiếp của một vị thầy có kinh nghiệm.
Chỉ có vị thầy như thế mới có thể xem xét chính xác các nhu cầu và mức tiến bộ
của mỗi học trò."
Những lời trên đây, nếu không phải
là một sự "truyền thừa vi mật" thì ít ra cũng là một huấn thị khẩu
truyền.
"Ân huệ" của vị Thầy
(guru) bao gồm các công đức mà vị đó đã tập hợp được qua tiến trình tu tập, và
người ta tin rằng các công đức này có thể hồi hướng, tức "gia bị",
cho người học trò. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra nếu các điều kiện (về
tâm linh thanh tịnh, tín tâm, định niệm, v.v.) hiện hữu giữa người học trò và vị
thầy đó. Thật sai lầm lớn khi cho rằng người học trò đang nhận được các thứ mà
không phải đáp ứng điều gì cả; bởi vì nếu thiếu các điều kiện trên, người học
trò sẽ không kinh nghiệm được bất kỳ "sự gia bị" nào từ người thầy của
mình cả.
Về câu chuyện đời bi tráng và gợi
cảm do người học trò đời thứ hai ghi lại về Jetsun Milarepa, chúng ta không có
nhiều chỗ để bàn đến ở đây. Độc giả nào quan tâm đến câu chuyện này có thể tìm đọc
tác phẩm được đề cập trong phần chú thích ở trên. Ỏ đây đã đủ để nói rằng
Jetsun ra đời vào năm 1596 Phật lịch (1052 T.L.) trong một gia đình thương gia
giàu có. Hồi nhỏ người ta gọi ông là Tubhaga (Hỷ Văn, Delightful-to-Hear). Người
ta bảo rằng cái tên này rất hợp với Milarepa vì ông có giọng nói rất hay và thường
hát các khúc ca địa phương. Về sau giọng nói này đã được ông sử dụng để hoằng
truyền Dhamma, và những ai nghe được đều xúc động sâu sắc.
May thay, Milarepa đã phác họa cuộc
đời ông trong một bài ca ông đã hát cho những học trò nghe, và chúng ta không
thể làm gì tốt hơn ngoài việc giới thiệu một trích đoạn của câu chuyện này ở đây.
1
Tôi là Milarepa được lòng thương
cảm (của Marpa) gia hộ.
Cha tôi là Mila Shirab Jhantsan,
Mẹ tôi là Nyantsa Karjan.
Và tôi là Tubhaga ("Hỷ Văn")
Vì ít công đức và đức hạnh,
Và Nghiệp Nhân-Quả quá khứ không
bỏ sót một ai,
Cha tôi Mila qua đời (lúc còn rất
trẻ).
Của cải, tài sản hư huyễn của gia
đình tôi
Đều bị vợ chồng người chú tước đoạt,
Những con người mà mẹ tôi và tôi
phải phục vụ.
Họ cho chúng tôi thức ăn chỉ đáng
dành cho chó;
Gió rét xuyên thâu áo quần rách rưới;
Da đóng băng, thân thể cứng đờ.
Tôi thường bị chú đánh đập,
Chịu đựng hình phạt độc ác của
ông.
Khó tránh được tính khí thất thường
của người thím.
Tôi đã sống gồng hết mình như có
thể, một đầy tớ thấp hèn,
Và gồng vai (trong cơn chịu đựng đắng
cay).
Bất hạnh giáng xuống nối tiếp
nhau;
Chúng tôi chịu khổ như thế, những
trái tim đã trở thành vô vọng.
Trong tuyệt vọng, tôi đã tìm đến
các La-ma
Từ các vị tôi nhận được các huyền
thuật Ser,
Ded và Tu.
Trước sự chứng kiến của chú thím
tôi, tôi đã mang đến
Thảm họa kinh hoàng cho làng mạc
và thân nhân của họ,
Vì việc này, về sau tôi đã chịu sự
dằn vặt sâu dày.
Rồi tôi nghe được tên tuổi của
Marpa, nhà Phiên Dịch tiếng tăm,
Người đã được thánh nhân Naropa
và Medripa gia bị,
Và đang sinh sống ở ngôi làng thượng
nguồn Sông Nam.
Sau cuộc hành trình gian khổ tôi đã
đến được đó.
Trong sáu năm tám tháng (tôi đã ở
lại)
Với Người, Marpa, bậc Đạo sư, người
Cha độ lượng của tôi.
Tôi đã xây nhiều ngôi nhà cho Người,
Có ngôi nhà có sân và chín tầng;
Chỉ sau khi xây xong Người mới chấp
nhận tôi.
(The Hundred Thousand Songs, pp.
267-8)
Rồi Milarepa liệt kê các huấn thị
thiền tập ông đã nhận được từ Guru Marpa sau một thời gian dài hành điệu và kể
lại ông đã đạt được Giác ngộ như thế nào qua sự thực hành các huấn thị này (xem
phần kết luận Lời Giới Thiệu này).
Tên gọi qua đó ông được mọi người
ở Tây Tạng biết đến là Jetsun Milarepa. "Jetsun" là một danh xưng cao
quý, có nghĩa là "thánh thiện", trong khi "Repa" có nghĩa
"mặc đồ vải bông". Mila là họ. Vì thế, trong tiếng Anh có thể gọi ông
là Holy Mila the Cotton-clad. Ông mang tên này là vì khả năng sống qua mùa đông
giá buốt Tây Tạng với chỉ một dung vải bông. Nơi mà người khác lẽ ra không thể
sống sót thì ông lại sống một cách an lạc, nhập vào các trạng thái định khác
nhau, và qua sự kiểm soát chúng, đã tạo đủ nhiệt năng cho cơ thể. Sau mười hai
năm thiền định khốc liệt trong các hang động heo hút, vắng bặt bóng người từ
các thung lũng bên dưới, ông đã tựu thành Giác ngộ. Sau thời gian này, học trò
lần lượt tụ lại quanh ông, người đầu tiên là Rechungpa, cậu học trò "như-mặt-trăng"
của ông, và sau đó là cậu học trò "như-mặt-trời" Gamboba. Những học trò
thân thiết nhất của ông đều rời bỏ gia đình tìm đến ông để sống cuộc sống không
nhà. Gambopa và một vài người khác đã trở thành tỳ-kheo, trong khi nhiều vị
khác như Rechungpa được gọi là "Repa", tức các hành giả du-già mặc chỉ
một mảnh vải bông.
Giống như đức Phật, Jetsun đã giảng
dạy Dhamma cho tất cả - cho sứ giả của nhà vua và cho những người chăn súc vật,
cho các nữ tu và mệnh phụ giàu có, cho các tỳ-kheo và hành giả Du-già, cho các
băng cướp và thương nhân. Câu chuyện ông chuyển hóa gã thợ săn Chirawa Gwumbo
Dorje cũng phổ biến ở Tây Tạng giống như trường hợp đức Phật thuần hóa
Angulimala ở các nước Phật giáo Nam phương.
Ở tuổi 80, Jetsun Milarepa xả bỏ
báo thân, ra đi trong sự quây quần của các học trò cõi trời cũng như cõi người.
Trong 900 năm các truyền thống thiền định mà ông huấn luyện cho học trò của
mình tiếp tục được hoằng truyền ở Tây Tạng. Truyền thống mang tên Chagyupa (có
khi gọi là Kargyutpa), có nghĩa là sự "truyền thừa vi mật". Pháp môn
tu tập Phật pháp này dĩ nhiên đặc biệt nhấn mạnh đến một số giáo thuyết nào đó,
tuy nhiên các bài ca với nội dung như thế không được trích dẫn trong cuốn sách
nhỏ này. Độc giả nào quan tâm thì xin tham khảo cuốn "Hundred Thousand
Songs of Milarepa".
Như nội dung các bài ca cho thấy,
dưới thời Milarepa nhiều tỳ-kheo đã dành nhiều năm dài cho việc học hỏi nghiên
cứu nhưng chẳng bao giờ chú tâm đến việc hành trì. Đó là sự phân ly giữa
patipatti-dhamma hay sila (giới) và samadhi (định) với pariyatti-dhamma hay thuần
học. Vào thời đó, rõ ràng các tỳ-kheo học giả ở Tây Tạng rất có năng lực tranh
biện các điểm vi tế của triết học Phật giáo và được trang bị đầy đủ luận lý học
để vượt thắng người ngoài cũng như bạn đồng tu trong các cuộc tranh luận. Dù
sao đi nữa, trong cái khối hỗn độn của việc học hỏi như thế (và so với khối lượng
đồ sộ của Kinh Luận Pali tương ưng thì Kinh tạng Tây Tạng và các luận thư còn vượt
trội đáng kể), và trong nhu cầu cấp thiết phải tu tập thiền định, thì các vị
tiêu biểu lỗi lạc nhất lại là các bậc thầy không đắp y tỳ-kheo. Đây là một sự thật
đối với các bậc thầy tổ của Milarepa (Guru trực tiếp của ông là Marpa, và các
hành giả Du-già Ấn-độ Naropa và Tilopa). Ở vài nơi ông phê phán các tỳ-kheo, cũng
như bất kỳ ai, chỉ học Dhamma để thỏa mãn tri thức hay chỉ vì lợi lộc thế tục.
Nhiều vị tỳ-kheo chân thật đã thực sự tìm đến ông để nhận các huấn thị về thiền
và sau đó đã tu tập với ông như bậc Đạo sư của mình. Vì thế, Milarepa chính là
cội nguồn của sự tái tạo tâm linh cho Tăng-già Tây tạng.
Vì chú trọng đến sự thực hành
Dhamma, nên đời sống và giáo pháp của Milarepa cho thấy trong nhiều khía cạnh
các điểm tương đồng đến kinh ngạc với Con Đường một vị tỳ-kheo thudong
(dhutanga) đang đi. Điểm khác biệt lớn nhất là một tỳ-kheo trong bất cứ đất nước
nào cũng buộc phải trì giữ các giới căn bản (Patimokkha) của mình, trong khi
Milarepa, vì không thọ Cụ túc (Upasampada) nên không phải trì giữ các giới này.
Tuy nhiên, chỉ cần thoáng nhìn cuộc đời của ông sau khi ông khởi sự tu trì,
chúng ta có thể thấy rằng ông đã gìn giữ chi li, cẩn trọng các huấn lệnh mà Thầy
ông, Marpa Đại Dịch giả, đã ban cho ông cũng như nỗ lực kiến lập hai nền tảng
Phạm hạnh không thể tách rời nhau của Dhamma là Trí huệ và Từ bi (paññkaruna).
Một điều còn vĩ đại hơn cả điều này là những tương đồng giữa ông và một tỳ-kheo
thudong. Tỷ dụ như cả hai đều tán dương hạnh tri túc, tán dương đời sống xả ly
hoàn toàn với thế sự, tán dương năng lực thù thắng trong thiền định, vân vân.
Mặc dù ông không chính thức thọ Cụ
giới và không đắp y tỳ-kheo, nhưng Milarepa thật sự là bậc "phát túc siêu
phương" (pabbajita). Không người nào đọc cuộc đời ông và một số ca khúc được
trích dẫn ở đây lại có thể nghi ngờ điều này. Theo các định nghĩa được cho
trong Dhammapada, Milarepa thật sự là một tỳ-kheo chân chính:
"Không phải bằng sự bắt chước
hình thức bên ngoài mà người ta trở thành một tỳ-kheo" (206).
"Người không chấp trước bất
cứ điều gì đối với 'tâm-và-thân' và không buồn bã vì những gì mình không có -
người đó, thật sự được gọi là tỳ-kheo" (367).
"Bất kỳ người nào ở đây, đã
buông bỏ công đức và phi công đức, người nào thánh thiện, người nào bước đi với
sự hiểu biết trong thế gian này, - người đó thật sự được gọi là tỳ-kheo"
(267).
Nhiều điều trên đây, và có lẽ còn
nhiều điều khác, có thể được trưng dẫn để chỉ ra rằng chính trong sự thực hành
Dhamma (patipatti) mà các trường phái tư tưởng Phật giáo khác nhau cho thấy nhiều
điểm tương đồng. Và rốt cùng, chính trong sự chứng đắc Dhamma (pativedha), mà mọi
dị biệt chấm dứt sinh khởi. Bởi vì mọi phương pháp mà tất cả các trường phái đang
thực hành, không có ngoại lệ, đều có chung mục đích là kinh nghiệm được Bodhi,
hay Giác ngộ. Nếu Dhamma chỉ được nghiên cứu từ kinh sách thì sẽ thấy nhiều điểm
dị biệt đang phân rã nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau; thế nhưng, trong
thực hành, lại có rất nhiều điểm chung. Vì mọi Phật tử đều thấy cấp bách phải
hành trì giáo pháp của mình cho nên chúng ta có thể khám phá thấy sự hòa đồng
giữa các truyền thống sai biệt của Dhamma qua sự kiện này.
Lời giới thiệu khiêm tốn này có
thể kết thúc bằng một bài kệ trích từ ca khúc nói về cuộc đời tác giả mà chúng
tôi đã trích dẫn một phần ở trên. Còn rất nhiều điều không cần thiết nói đến ở đây,
vì hay nhất là Jetsun sẽ hát cho quý vị nghe những ca khúc vi diệu về Pháp, những
ca khúc ngát hương Trí tuệ.
"Tôi đã từ bỏ mọi chuyện của
cuộc đời này;
Và, không còn giải đãi, tôi đã hiến
dâng mình cho Pháp.
Vì thế đã đạt đến Trạng thái An lạc
Thường hằng.
Đó là câu chuyện đời tôi."
Khantipalo Bhikkhu
Bangkok, Thailand.
6th of the Waning Moon of Citta
2508
(22nd April 1965).
-----------
* Bản dịch Anh ngữ "Sixty
Songs of Milarepa" của Garma C. C. Chang. Dịch Việt: Phan Minh Trị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét