Chương 1: Khuynh
Hướng Vật Chất Mang Tính Tâm Linh
Chúng ta đã đến đây để học về tâm linh. Tôi tin tưởng
phẩm tính chân thật của sự tìm kiếm này, nhưng chúng ta phải đặt nghi vấn về bản
thể của nó. Vấn đề là tự ngã có thể biến mọi thứ trở thành đồ dùng của nó, ngay
cả tâm linh. Tự ngã thường xuyên nỗ lực giành giựt và ứng dụng các giáo pháp về
tâm linh để thủ lợi. Các giáo pháp này được coi như ngoại vật, nằm ngoài cái
“tôi”, một triết lý chúng ta đang cố bắt chước. Chúng ta không thật sự muốn trở
thành, hay đồng nhất với giáo pháp. Vì thế, nếu thầy chúng ta nói về phá ngã,
chúng ta cũng cố bắt chước phá ngã. Chúng ta cũng thực hiện đầy đủ các động
tác, cũng có những cử chỉ điệu bộ thích hợp,
nhưng thật ra chúng ta không muốn
hy sinh bất cứ phần nào trong nếp sống của chúng ta. Chúng ta trở nên những diễn
viên tài giỏi, và trong khi giả câm giả điếc trước ý nghĩa chân thật của giáo
pháp, chúng ta đã tìm kiếm sự thoải mái trong việc giả vờ đi theo con đường tâm
linh.
Bất cứ khi nào chớm thấy sự khác biệt hay xung đột giữa
giáo pháp và các hành vi của mình là ngay lập tức chúng ta tìm cách diễn dịch
tình cảnh đó theo cách có thể lấp liếm đi sự xung đột. Kẻ diễn dịch chính là tự
ngã trong vai trò cố vấn tâm linh. Tình cảnh này giống như một đất nước có giáo
hội và nhà nước tách rời nhau. Nếu chính sách của nhà nước khác biệt với giáo
lý của giáo hội thì phản ứng tự nhiên của nhà vua là đến gặp vị đứng đầu giáo hội,
tức cố vấn tâm linh của mình, để xin ban phước lành. Lúc đó vị đứng đầu giáo hội
sẽ chứng minh và ban phước cho chính sách của nhà vua, viện cớ nhà vua là người
bảo vệ tín ngưỡng. Với một cá thể, cái tâm cũng diễn ra rất ngăn nắp gọn gàng
như thế; tự ngã vừa là vua, vừa là người đứng đầu giáo hội.
Việc hợp lý hóa con đường tâm linh và những hành động của
ta theo cách đó phải được cắt đứt nếu muốn đạt đến đời sống tâm linh đích thực.
Tuy nhiên, việc hợp lý hóa này không dễ giải quyết, bởi vì mọi sự đều được nhìn
qua bộ lọc triết học và luận lý của tự ngã, khiến cho mọi thứ trông rất ngăn nắp,
chuẩn xác và rất hợp luận lý. Chúng ta cố gắng tìm một câu trả lời có tính chất
tự biện hộ đối với mỗi câu hỏi. Để tự khẳng định một lần nữa, chúng ta tìm cách
đưa vào cái khung lý trí của chúng ta mọi khía cạnh của đời sống, vốn có thể
đang hỗn độn của chúng ta. Và nỗ lực của chúng ta thì rất đứng đắn và nghiêm
túc, rất thẳng thắn và thành thật, rất khó mà nghi ngờ. Chúng ta luôn tin tưởng
“sự chính trực” của người cố vấn tâm linh của chúng ta.
Không thành vấn đề việc chúng ta sẽ dùng đến cái gì để
đạt được sự tự biện hộ: minh triết của thánh điển, các biểu đồ hay đồ thị, các
phép tính toán học, các mật chú, tôn giáo chính thống, tâm lý học chiều sâu,
hay bất cứ cơ cấu nào khác. Bất cứ khi nào chúng ta bắt đầu đánh giá, quyết định
nên hay không nên làm điều này điều kia, thì lúc đó chúng ta đã kết hợp sự tu tập
hay hiểu biết của chúng ta với các phạm trù, cái này đọ sức với cái kia. Và đó
chính là khuynh hướng vật chất mang tính tâm linh, là tính chất tâm linh giả tạo
của vị cố vấn tâm linh. Bất cứ khi nào chúng ta có một ý niệm nhị nguyên, như
“tôi đang làm thế này vì tôi muốn thành tựu một trạng thái đặc biệt của tâm thức,
một trạng thái hiện hữu đặc biệt,” thì lúc đó chúng ta đã tự động tách chúng ta
ra khỏi thực tại những gì chúng ta đang là.
Nếu chúng ta tự hỏi, “Có gì sai khi đánh giá, khi đứng
về phía nào đó?” thì câu trả lời là: khi chúng ta phát biểu một phán đoán thứ
hai, như “ta nên làm điều này, nên tránh làm điều kia,” thì lúc đó chúng ta đã
đạt đến một mức độ của sự rắc rối, và sự rắc rối này sẽ dẫn chúng ta đi xa khỏi
sự đơn thuần căn bản của những gì chúng ta đang là. Tính chất đơn thuần của thiền
có nghĩa rằng chỉ cần kinh nghiệm được bản năng như vượn như khỉ của tự ngã. Nếu
có thêm cái gì đó được đặt lên tâm lý của chúng ta thì cái đó sẽ trở thành một mặt
nạ dày cộm nặng nề, một bộ áo giáp.
Thật quan trọng để thấy rằng điểm chính yếu của bất cứ
sự tu tập tâm linh nào là phải bước ra khỏi tính chất quan liêu của tự ngã. Điều
này có nghĩa bước ra khỏi ham muốn thường xuyên của tự ngã đối với một phiên bản
cao hơn, nhiều tâm linh hơn, siêu việt hơn về kiến thức, tôn giáo, đức tính,
phán đoán, hoặc bất cứ cái gì mà tự ngã đó đang tìm kiếm. Ta phải bước ra khỏi
khuynh hướng vật chất mang tính tâm linh. Nếu ta không bước ra khỏi khuynh hướng
vật chất mang tính tâm linh này, nếu ta thật sự vẫn đang làm như thế, thì có lẽ
cuối cùng ta sẽ thấy mình sở hữu một bộ sưu tập khổng lồ các con đường tâm
linh. Có thể ta sẽ cảm thấy những sưu tập tâm linh này rất quý giá. Chúng ta đã
học hỏi quá nhiều. Có thể chúng ta đã học triết học phương Tây hay triết học
phương Đông, thực hành du-già, hoặc có lẽ đã học với hàng tá vị thầy vĩ đại.
Chúng ta đã thành tựu và chúng ta đã học. Chúng ta tin rằng đã tích lũy một kho
kiến thức. Thế nhưng, sau khi đã hoàn bị tất cả những điều này, vẫn còn có cái
gì đó phải từ bỏ. Điều này cực kỳ huyền bí! Làm sao điều này có thể xảy ra?
Không thể được! Nhưng không may, sự thật là thế. Những gom góp mênh mông của
chúng ta về kiến thức và kinh nghiệm chỉ là một phần sự phơi bày của tự ngã, một
phần trong tính chất lớn lao của tự ngã. Chúng ta phơi bày chúng ra với thế giới,
và khi làm thế, chúng ta tự khẳng định một lần nữa chúng ta đang tồn tại, an
toàn và chắc chắn, như những con người “có tâm linh”.
Thế nhưng chúng ta chỉ lập ra một cửa tiệm, một cửa tiệm
bán đồ cổ. Có thể chúng ta là chuyên gia đồ cổ phương Đông, hoặc đồ cổ Thiên
chúa giáo thời Trung cổ, hoặc đồ cổ thuộc một nền văn minh hay thời đại nào đó;
thế nhưng, dù gì đi nữa chúng ta cũng vẫn đang điều hành một cửa tiệm. Trước
khi chúng ta chất đầy nhiều thứ như thế trong cửa tiệm thì căn phòng này rất đẹp:
những bức tường sơn trắng và một sàn nhà rất giản dị với ngọn đèn sáng rực rỡ
trên trần. Có một tác phẩm nghệ thuật ở giữa phòng và nó rất đẹp. Những ai bước
chân vào đều ngợi khen vẻ đẹp của nó, bao gồm cả chính chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta không thỏa mãn, và chúng ta nghĩ,
“Vì tác phẩm nghệ thuật này làm cho căn phòng đẹp như thế, nếu ta có thêm một số
đồ cổ nữa thì căn phòng của ta sẽ càng đẹp hơn.” Thế là chúng ta bắt đầu thu
gom, và kết quả cuối cùng là một đống hỗn độn.
Chúng ta lùng sục khắp nơi trên thế giới các món đồ đẹp
– Ấn Độ, Nhật Bản, nhiều quốc gia khác nhau. Và mỗi lần chúng ta tìm thấy một
món, và vì mỗi lần như thế chỉ kiếm được một món, chúng ta thấy nó đẹp biết bao
và nghĩ có lẽ nó sẽ rất đẹp trong tiệm chúng ta. Nhưng khi chúng ta mang về nhà
và đặt ở đó, nó chỉ trở thành một vật được thêm vào trong đống đồng nát của
chúng ta. Vẻ đẹp của món đồ đó không còn tỏa sáng nữa vì đã bị vây quanh bởi
quá nhiều thứ đẹp đẽ khác. Nó không còn có ý nghĩa gì nữa. Thay vì một căn
phòng chưng đầy các đồ cổ mỹ thuật, chúng ta đã tạo ra một cửa hàng đồng nát!
Sự mua sắm đúng đắn không kéo theo việc lượm lặt thông
tin hay cái đẹp, mà liên quan đến việc thẩm định đầy đủ từng đồ vật riêng lẻ.
Điều này rất quan trọng. Nếu bạn thật sự thẩm định được một món đồ mỹ thuật, bạn
sẽ hoàn toàn đồng nhất với món đồ đó và quên ngay chính bạn. Nó giống như khi
xem một cuốn phim rất hấp dẫn và thú vị, bạn đã quên mình là khán giả. Vào giây
phút đó thế giới không còn tồn tại nữa; toàn bộ hiện hữu của bạn chính là cảnh
tượng của cuốn phim đó. Đó là một loại đồng nhất, một sự thu hút trọn vẹn tâm
trí vào một sự vụ nào đó. Với món đồ cổ đẹp đẽ đó, với lời dạy tâm linh đó,
chúng ta có thật sự nếm nó, nhai nó và nuốt nó một cách trọn vẹn? Hay chúng ta
chỉ xem nó như một phần của sự gom góp to lớn, càng ngày càng nhiều thêm của
chúng ta?
Tôi nhấn mạnh điểm này vì tôi biết rằng tất cả chúng
ta đã đến nghe Pháp và tập thiền không phải để kiếm ra tiền, mà chúng ta thật sự
muốn học, muốn phát triển bản thân. Nhưng nếu chúng ta xem tri thức như một món
đồ cổ, như một thứ “minh triết cổ đại” cần sưu tập thì chúng ta đã đi nhầm đường.
Trong giòng truyền thừa của các vị thầy, tri thức
không được trao truyền như một món đồ cổ. Sự thật thì người thầy kinh nghiệm được
chân lý của các giáo pháp, và trao cho học trò mình như một loại cảm hứng. Cảm
hứng đó đánh thức người học trò, giống như người thầy đã được đánh thức trước
đây. Giáo pháp thì luôn luôn cập nhật. Nó không phải là một “minh triết cổ đại”,
một huyền thoại xa xưa. Giáo pháp không được truyền đi như một loại thông tin,
không được truyền miệng như một người ông kể cho cháu mình nghe những câu chuyện
cổ tích dân gian. Giáo pháp không lưu truyền cách đó. Nó là một kinh nghiệm có
thật.
Kinh sách Tây Tạng có câu nói rằng, “Tri thức phải được
thiêu đốt, dập, đập như vàng ròng để ta có thể mang nó như đồ trang sức.” Vậy
thì khi bạn nhận được các huấn thị tâm linh từ tay một người khác, bạn không cầm
giữ một cách hời hợt, mà bạn phải nung đỏ lên, dập, đập, cho đến khi màu sắc rực
rỡ đáng giá của vàng hiện ra. Rồi bạn mài dũa thành đồ trang sức, theo bất cứ
kiểu mẫu nào bạn thích, và mang vào người. Vì thế, dharma (pháp) có thể ứng dụng cho mọi thời đại, cho mọi người; nó
có một phẩm tính sinh động. Chỉ bắt chước người thầy hay guru của bạn thì không
đủ; bạn đừng cố gắng trở thành một phiên bản của thầy bạn. Giáo pháp là một
kinh nghiệm cá nhân riêng tư, được truyền trực tiếp cho người nắm giữ giáo thuyết
ở hiện tại.
Có lẽ nhiều người trong số độc giả của tôi đã biết những
câu chuyện kể về Naropa, Tilopa, Marpa, Milarepa, Gampopa và những vị thầy khác
của giòng truyền thừa Kagyü. Đó là một kinh nghiệm sống đối với họ, và cũng là
kinh nghiệm sống đối với người trì giữ giòng truyền thừa hiện tại. Chỉ có các
chi tiết về hoàn cảnh sống của họ là khác. Giáo pháp có tính chất của cái bánh
mì nướng mới ra lò; bánh mì vẫn ấm, nóng, và thơm. Mỗi người thợ phải áp dụng
kiến thức chung về cách làm bánh mì đối với loại bột và cái lò riêng của mình.
Rồi họ phải tự thân kinh nghiệm độ dòn của bánh và phải cắt ăn khi còn nóng. Họ
phải biến kiến thức chung thành hiểu biết riêng của họ và rồi áp dụng chúng. Đó
là một quá trình rất sống động. Không có sự đánh lừa về việc tích lũy kiến thức.
Chúng ta phải hành động bằng kinh nghiệm riêng của chính mình. Khi đầu óc trở
nên hỗn độn, chúng ta không thể quay lại vốn liếng kiến thức của mình và cố tìm
kiếm một sự an ủi hay trấn an nào đó, “Thầy và toàn bộ giáo pháp đều đứng về
phía ta.” Con đường tâm linh không vận hành theo lối đó. Đó là một con đường
đơn độc, riêng tư.
--Hỏi: Ông có nghĩ khuynh hướng vật chất tâm linh là một
vấn đề riêng của người Mỹ không?
--Đáp: Bất cứ khi nào giáo pháp từ ngoài du nhập vào một
đất nước thì vấn đề khuynh hướng vật chất tâm linh đều trở nên mãnh liệt hơn.
Vào lúc này, không còn nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ là mảnh đất phì nhiêu dành cho
giáo pháp. Và vì nước Mỹ phì nhiêu như thế, việc tìm kiếm đời sống tâm linh ở
đây có thể khiến cho những ông lang băm thấy có hứng thú. Lang băm sẽ không muốn
trở thành lang băm trừ khi họ thấy hứng thú để làm thế. Nếu không, họ sẽ là những
tên cướp nhà băng, vì họ muốn có tiền và nổi tiếng. Bởi vì nước Mỹ đang tìm kiếm
đời sống tâm linh vất vả như thế, nên tôn giáo trở thành một cách kiếm tiền và
nổi tiếng dễ dàng. Vì thế chúng ta thấy lang băm đóng vai sinh viên, chú tiểu, cũng như guru. Tôi nghĩ nước Mỹ
vào thời điểm đặc biệt này là một vùng đất rất thú vị.
--Hỏi: Ông có nhận người thầy tinh thần nào làm guru,
người thầy tâm linh đang còn sống nào không?
--Đáp: Hiện tại thì không. Tôi đã rời xa các guru và
thầy dạy của tôi, về mặt thân xác, ở Tây tạng, nhưng những lời dạy vẫn còn lại
và trôi chảy trong tôi.
--Hỏi: Vậy thì, hoặc nhiều hoặc ít, ông đang theo bước
ai?
--Đáp: Các hoàn cảnh là tiếng nói của guru tôi, là sự
có mặt của guru tôi.
--Hỏi: Sau khi Phật Thích-ca chứng ngộ, có còn lại dấu
vết nào của tự ngã ở trong Ngài để Ngài có thể tiếp tục sự giáo hóa của Ngài
không?
--Đáp: Sự giáo hóa tự xảy đến. Ngài không có ý muốn
giáo hóa hay không giáo hóa. Ngài trải qua bảy tuần ngồi dưới bóng cây và bước
đi dọc bờ sông. Rồi có ai đó tình cờ đi theo và Ngài bắt đầu nói. Người ta
không có chọn lựa; quý vị hiện diện ở đó, những con người cởi mở. Rồi hoàn cảnh
tự trình hiện và việc giáo hóa xảy đến. Đó là điều được gọi là “Phật hành”
(Buddha activity).
--Hỏi: Thật khó để đừng có ý tưởng sở đắc về mặt tâm
linh. Đó có phải là lòng ham muốn sở đắc, cái nên vứt bỏ trên đường đi?
--Đáp: Quý vị nên để cho lực đẩy ban đầu thui chột đi.
Lực đẩy đầu tiên hướng về phía tâm linh của quý vị có thể đưa quý vị vào một
khung cảnh tâm linh riêng biệt nào đó; nhưng nếu quý vị hành động với lực đó
thì nó sẽ dần dần thui chột, và đến giai đoạn nào đó, nó sẽ trở nên nhạt nhẽo,
đơn điệu. Đây là một lời nhắn hữu ích. Quý vị thấy, điều thiết yếu là liên hệ với
bản thân quý vị, với kinh nghiệm riêng của quý vị, một cách đích thực. Nếu ta không liên hệ được với bản thân mình thì
con đường tâm linh sẽ trở thành nguy hiểm, trở thành một thú vui hoàn toàn ở
ngoài, hơn là một kinh nghiệm riêng tư sống động.
--Hỏi: Nếu ông quyết định tìm kiếm con đường ra khỏi
vô minh, thì một điều khá hiển nhiên là ông có thể cho rằng bất cứ điều tốt nào
ông làm sẽ có lợi cho tự ngã và thật sự cản trở con đường. Bất cứ điều gì có vẻ
đúng với ông sẽ là điều sai, bất cứ cái gì không lật ngược ông sẽ chôn vùi ông.
Có con đường nào ra khỏi tình cảnh đó không?
--Đáp: Nếu quý vị thể hiện một hành động nào đó hình
như đúng thì không có nghĩa rằng hành động đó sai, bởi chính lý do là sai và
đúng đều cùng nhau xuất phát từ một bức tranh. Quý vị không hành động theo bất
cứ bên nào, không phải bên “tốt” cũng không phải bên “xấu,” mà quý vị hành động
với tính toàn thể của cả khối, vượt lên “cái này” và “cái kia.” Tôi muốn nói có
một hành động trọn vẹn. Không có động tác thiên vị, nhưng bất cứ điều gì chúng
ta làm có liên quan đến tốt và xấu thì hình như đó là một động tác thiên vị.
--Hỏi: Nếu ông đang cảm thấy rối trí và nỗ lực thoát
ra khỏi tình trạng đó, thì hình như ông đang cố gắng quá nhọc nhằn. Nhưng nếu
ông không cố sức chút nào cả thì chúng ta có thể hiểu là chúng ta đang tự đánh
lừa mình không?
--Đáp: Vâng, nhưng điều đó không có nghĩa người ta phải
sống dựa vào các cực đoan của việc cố gắng quá sức và chẳng cố gắng gì cả. Người
ta phải hành động theo một loại “trung đạo” (middle way), một trạng thái “hiện
hữu trọn vẹn như quý vị đang là.” Chúng ta có thể mô tả điều này bằng nhiều từ
ngữ, nhưng người ta thật sự phải hành động như thế. Nếu quý vị bắt đầu sống
theo trung đạo, quý vị sẽ nhìn thấy nó, sẽ tìm thấy nó. Quý vị phải để cho bản
thân mình tin tưởng chính mình, tin tưởng vào sự thông minh của chính quý vị.
Chúng ta là những con người kỳ vĩ, chúng ta có những điều to lớn trong chúng
ta. Chúng ta chỉ phải để cho chính chúng ta hiện hữu. Tha lực không giúp được.
Nếu quý vị không muốn để cho mình tăng trưởng, vậy là quý vị đã rơi vào tiến
trình tự hủy của sự mê mờ. Đó là sự tự hủy diệt hơn là bị người khác hủy diệt.
Đó là lý do tại sao nó lại tạo quả; bởi vì nó là sự tự hủy.
--Hỏi: Tín ngưỡng là gì? Nó có hữu ích không?
--Đáp: Tín ngưỡng có thể là niềm tin mù quáng, của người
có đầu óc đơn giản, dễ tin; hoặc nó có thể là sự tin tưởng rõ ràng không thể
phá bỏ được. Niềm tin mù quáng không có cảm hứng. Nó rất ngây thơ. Nó không
sáng tạo, mặc dù không hẳn là phá hoại. Nó không sáng tạo vì niềm tin và bản
thân của quý vị không bao giờ nối kết, không bao giờ truyền đạt cho nhau. Quý vị
chỉ mù quáng chấp nhận toàn bộ tín ngưỡng, một cách rất ngây thơ.
Trong trường hợp tín ngưỡng là sự tin tưởng, có tồn tại
một lý do sống động để tin tưởng. Quý vị không mong đợi sẽ có một giải pháp lập
sẵn trình hiện trước quý vị một cách huyền bí. Quý vị hành động trong hoàn cảnh
hiện tiền mà không sợ hãi, không nghi ngờ về sự dấn thân của mình. Phương cách
này thì cực kỳ sáng tạo và tích cực. Nếu quý vị có sự tin tưởng rõ ràng, quý vị
sẽ rất chắc chắn về mình, đến độ quý vị không cần phải kiểm tra bản thân mình.
Đó là sự tin tưởng tuyệt đối, sự hiểu
biết đích thực những gì đang diễn ra vào bây giờ; vì thế quý vị sẽ không ngần
ngại đi theo những con đường khác hoặc quan tâm đến bất kỳ con đường nào cần
thiết cho mỗi hoàn cảnh mới.
--Hỏi: Cái gì dẫn dắt ông trên con đường?
--Đáp: Thật sự, dường như không có bất cứ sự dẫn dắt đặc
biệt nào. Thật vậy, nếu có ai đó đang dẫn dắt quý vị thì điều đó thật đáng ngờ,
vì quý vị đang dựa vào cái gì đó ở bên ngoài. Sự hiện hữu trọn vẹn như những gì
mình đang là trong chính mình chính là sự dẫn dắt, nhưng không phải theo nghĩa
của người đi tiên phong; vì quý vị không có một người hướng dẫn để đi theo. Quý
vị không phải theo đuôi ai; quý vị chỉ tự đi. Nói cách khác, người hướng dẫn
không bước đi phía trước mà là cùng bước với quý vị.
--Hỏi: Xin ông nói điều gì đó về cách thức theo đó thiền
có thể làm cho cơ cấu phòng vệ của tự ngã ngừng hoạt động?
--Đáp: Cơ cấu phòng vệ của tự ngã có liên quan đến việc
kiểm tra bản thân, một loại tự quan sát không cần thiết. Thiền không đặt nền tảng
trên sự suy tưởng về một chủ đề đặc
biệt bằng việc kiểm soát tự thân; mà thiền là sự đồng nhất trọn vẹn với bất kỳ
kỹ thuật nào ta đang sử dụng. Vì thế sẽ không có nỗ lực nào nhằm bảo vệ bản
thân trong việc tập thiền.
--Hỏi: Tôi dường như đang sống ở một nơi để đồ đồng
nát. Làm thế nào tôi có thể khiến nơi đó trở thành một căn phòng đơn giản với một
món đồ đẹp đẽ ở trong đó?
--Đáp: Để phát triển một sự thẩm định các thứ quý vị
sưu tập được, quý vị phải bắt đầu với chỉ một món thôi. Người ta phải tìm ra một
bàn đạp, một nguồn cảm hứng. Có lẽ quý vị sẽ không phải cần đến các thứ còn lại
trong bộ sưu tập của quý vị nếu quý vị chỉ nghiên cứu một món thôi. Món đồ đó
có thể là một cột tín hiệu quý vị đã tìm cách tịch thu ở New York; một đồ vật
có thể chẳng có ý nghĩa gì như thế. Nhưng người ta phải bắt đầu bằng một đồ vật,
nhìn xem sự đơn giản của nó, tính chất thô sơ của món đồ tạp nhạp hay cổ vật mỹ
thuật này. Nếu ta có thể chỉ bắt đầu với một thứ, điều này sẽ tương đương với
việc chỉ có một đồ vật trong căn phòng trống. Tôi nghĩ đó là vấn đề tìm ra một
cái bàn đạp, một hòn đá đỡ bước chân. Vì ta có quá nhiều vật sở hữu sưu tập được,
một phần lớn vấn đề là ta không biết bắt đầu từ đâu. Người ta phải để cho bản
năng quyết định chọn lựa đồ vật nào trước tiên.
--Hỏi: Tại sao ông nghĩ rằng người ta bảo vệ tự ngã của
mình như thế? Tại sao rất khó buông bỏ tự ngã của mình?
--Đáp: Người ta sợ hãi sự trống rỗng của không gian,
hay sự thiếu vắng những người chung quanh, hay sự thiếu vắng một cái bóng. Có
thể là một kinh nghiệm khủng khiếp nếu không có ai để liên hệ, không có cái gì
đó để liên hệ. Ý tưởng về điều này có thể cực kỳ khủng khiếp, cho dù không phải
là kinh nghiệm có thực. Thông thường đó là nỗi sợ về không gian, nỗi sợ ta sẽ
không thể bám víu vào một nền tảng vững chắc nào đó, sẽ đánh mất bản thân mình,
vốn được xem như một thứ hiển nhiên, vững chắc và cố định. Điều này có thể rất
khủng khiếp.
******
Chương 2: Sự Tuân Phục
Đến đây chúng ta có thể đi đến kết luận rằng chúng ta
nên buông bỏ toàn bộ trò chơi khuynh hướng vật chất mang tính tâm linh. Điều
này có nghĩa chúng ta nên từ bỏ việc phòng vệ và cải thiện tự thân. Có lẽ chúng
ta đã thoáng thấy rằng cuộc chiến đấu của chúng ta chẳng có ích lợi gì, và có
thể chúng ta muốn đầu hàng, buông bỏ hoàn toàn mọi nỗ lực phòng vệ bản thân. Thế
nhưng, có bao nhiêu người trong chúng ta có thể thật sự làm được điều này? Vấn
đề không đơn giản và dễ dàng như chúng ta nghĩ. Chúng ta có thể thật sự buông xả
và cởi mở đến mức độ nào? Ở giai đoạn nào chúng ta mới cần phải phòng vệ?
Trong bài nói chuyện này chúng tôi sẽ bàn đến sự tuân
phục, đặc biệt liên hệ đến mối tương quan giữa công việc trong trạng thái căng
thẳng thần kinh của tâm và công việc với người thầy hay guru của mình. Tuân phục
trước “guru” có nghĩa là mở rộng tâm ta trước những hoàn cảnh sống, cũng như
trước vị guru của mình. Tuy nhiên, nếu nếp sống và hứng khởi của chúng ta đang
hướng đến một sự khai mở của tâm thì hầu như chúng ta sẽ chắc chắn cũng tìm thấy
một guru cho mình. Vì thế trong những lần nói chuyện tới, chúng tôi sẽ nhấn mạnh
đến sự liên hệ với vị guru riêng của mình.
Một trong những khó khăn trong việc tuân phục trước một
guru là những định kiến của chúng ta về ông và những mong đợi của chúng ta về
những gì sẽ xảy ra với ông. Đầu óc chúng ta ngập đầy ý tưởng về những gì chúng
ta mong muốn trải qua với ông: “Tôi muốn nhìn thấy điều này; đó là cách tốt nhất
để nhìn thấy nó; tôi muốn trải qua hoàn cảnh đặc biệt này, vì nó hoàn toàn
tương ưng với sự mong đợi và thu hút tôi.”
Thế là chúng ta cố nhét đầy các thứ vào các ngăn kéo,
cố làm cho hoàn cảnh phù hợp với những hy vọng của chúng ta; và chúng ta không
chịu nhượng bộ bất cứ điều gì trong sự tiên liệu của mình. Nếu chúng ta tìm kiếm
một guru hay một người thầy, chúng ta mong chờ đó sẽ là một con người thánh thiện,
hiền hòa, trầm mặc, giản dị, nhưng lại thông thái. Khi chúng ta tìm thấy rằng
ông không đáp ứng được sự mong đợi của mình, chúng ta bắt đầu thất vọng, chúng
ta bắt đầu nghi ngờ.
Để thiết lập một tương quan thầy-trò thật sự, chúng ta
cần phải từ bỏ tất cả định kiến của mình về mối tương quan đó và về điều kiện
khai mở và tuân phục. “Tuân phục” có nghĩa là mở rộng bản thân hoàn toàn, cố gắng
vượt lên trên sự thu hút và mong chờ.
Tuân phục cũng có nghĩa thừa nhận các phẩm tính thô
thiển, non dại, vụng về và xấu xa của tự ngã, thừa nhận chúng và cũng từ bỏ
chúng nữa. Thông thường chúng ta thấy rất khó từ bỏ các phẩm tính thô thiển và ấu
trĩ của tự ngã. Mặc dù chúng ta có thể oán ghét bản thân chúng ta, nhưng đồng
thời chúng ta cũng nhận ra sự oán ghét này là một loại chiếm hữu. Dù sự thật là
chúng ta có thể không thích những gì chúng ta đang là, và thấy việc tự lên án
là rất đau khổ, nhưng chúng ta vẫn không thể từ bỏ hoàn toàn. Nếu chúng ta từ bỏ
sự tự phê phán, chúng ta có thể cảm thấy chúng ta đang đánh mất sự chiếm hữu,
làm như ai đó đang lấy đi công ăn việc làm của chúng ta. Chúng ta sẽ không còn
chiếm hữu được gì nữa nếu chúng ta chuẩn bị từ bỏ mọi thứ; sẽ không còn gì để
đeo bám nữa. Về căn bản, tự đánh giá và tự phê phán là các khuynh hướng có tính
chất loạn thần kinh, xuất phát từ việc chúng ta không có đủ tin tưởng vào bản
thân mình – “tin tưởng” theo nghĩa nhìn thấy chúng ta đang là gì, hiểu được
chúng ta đang là gì, biết được chúng ta có đủ sức để mở rộng chính mình. Chúng
ta có đủ sức để từ bỏ tính chất non nớt, thô thiển và thần kinh đó của tự ngã,
và bước ra khỏi sự lôi cuốn, bước ra khỏi các định kiến.
Chúng ta phải từ bỏ mọi hy vọng và mong đợi, cũng như
những sợ hãi của chúng ta, và dõng dạc bước thẳng vào sự thất vọng, hành động với
sự thất vọng, đi vào nó và làm nó trở thành nếp sống của chúng ta; một việc rất
khó làm đấy. Thất vọng là một dấu hiệu tốt của sự thông minh căn bản. Không thể
ví nó với bất cứ cái gì. Nó sắc bén, chính xác, hiển nhiên và thẳng thắn. Nếu
chúng ta có thể cởi mở thì bỗng nhiên chúng ta bắt đầu thấy rằng những mong đợi
của chúng ta không hợp thời so với thực tại các hoàn cảnh mà ta đang đối mặt.
Điều này tự động mang lại một cảm giác thất vọng.
Thất vọng là chiếc xe ngựa tốt nhất để dùng trên con
đường của Pháp (dharma). Nó không thừa nhận sự hiện hữu của tự ngã và những giấc
mơ của tự ngã. Tuy nhiên, nếu chúng ta bị kẹt vào khuynh hướng vật chất tâm linh,
nếu chúng ta xem tâm linh là một phần trong sự tích lũy học thức và đạo đức, nếu
tâm linh trở thành phương thức xây đắp bản thân chúng ta, thì dĩ nhiên toàn bộ
tiến trình tuân phục hoàn toàn bị biến dạng. Nếu chúng ta xem tâm linh như một
cách thức làm cho bản thân chúng ta thoải mái, thì bất cứ lúc nào chúng ta trải
qua điều gì đó khó chịu, trải qua sự thất vọng, chúng ta sẽ cố hợp lý hóa điều
đó: “Dĩ nhiên đây phải là một động tác của trí huệ về phía guru; vì ta biết, ta
hoàn toàn chắc chắn guru không làm chuyện gì có hại. Guruji là một hiện hữu
toàn bích và bất cứ điều gì Guruji làm đều đúng. Bất cứ điều gì Guruji làm là
vì ta, vì ông đứng về phía ta. Vì thế ta đủ sức mở rộng mình, ta có thể an toàn
tuân phục. Ta biết ta đang dẫm chân trên con đường đúng.” Có điều gì đó không
hoàn toàn đúng với một thái độ như thế. Nó ngây thơ, tốt nhất, đầu óc đơn giản.
Chúng ta bị nắm bắt bởi khía cạnh rực rỡ, cao cả, hưng phấn và kinh hoàng của
“Guruji”. Chúng ta không dám suy tư theo cách nào khác. Chúng ta phát triển niềm
tin vững chắc rằng bất cứ điều gì chúng ta trải qua đều là một phần phát triển
tâm linh của chúng ta. “Tôi đã làm ra cái đó. Tôi đã kinh nghiệm điều đó. Tôi
là một người tự lập và tôi biết mọi thứ, gần như thế, vì tôi đã đọc sách và niềm
tin của tôi, sự hợp lý của tôi, những ý tưởng của tôi được thừa nhận. Mọi thứ đều
trùng hợp.”
Chúng ta vẫn có thể còn do dự theo một cách khác,
không thật sự tuân phục, vì cảm thấy rằng mình là những con người rất quý phái,
lão luyện và cao sang. “Chắc chắn chúng ta không thể giao mình cho cái cảnh
quang phố chợ tầm thường bẩn thỉu này của thực tại.” Chúng ta có cảm giác rằng
mỗi bước chân của chúng ta trên đường đều là một đài sen, và chúng ta phát sinh
một lập luận để diễn dịch theo đó bất cứ điều gì xảy đến cho chúng ta. Nếu
chúng ta ngã, chúng ta sẽ tạo ra một cú ngã nhẹ nhàng để khỏi bị chấn động bất
ngờ. Sự tuân phục không dính líu gì đến việc chuẩn bị một cú ngã nhẹ nhàng; nó
ám chỉ việc đặt chân xuống trên một nền đất cứng, bình thường, trên một miền
quê sỏi đá, hoang dại. Một khi chúng ta khai mở được chính mình, lúc đó chúng
ta sẽ đáp xuống trên cái đang là.
Theo truyền thống, sự tuân phục được biểu tượng qua
các sự thực hành như lễ bái, vốn là động tác ngã mình xuống đất trong một cử chỉ
tuân phục. Cùng lúc chúng ta mở rộng về mặt tâm lý, và tuân phục hoàn toàn bằng
cách đồng nhất chính mình với cái thấp hèn nhất trong những cái thấp hèn, nhìn
nhận tính chất non dại và thô thiển của chính bản thân mình. Không có gì phải sợ
mất một khi chúng ta đã đồng nhất với cái thấp hèn nhất trong những cái thấp
hèn. Bằng cách làm như thế, chúng ta chuẩn bị mình trở thành một cái thùng trống
rỗng, sẵn sàng để thu nhận giáo pháp.
Theo truyền thống Phật giáo, có một công thức căn bản
như thế này: “Tôi trú ẩn ở Phật, tôi trú ẩn ở Pháp, tôi trú ẩn ở Tăng.” Tôi trú
ẩn ở Phật, như một thí dụ về sự tuân phục, biểu tượng cho sự nhìn nhận tính chất
tiêu cực là một phần của kết cấu con người tôi và mở rộng trước điều đó. Tôi
trú ẩn ở Pháp – dharma, “quy luật sự tồn tại,” hay đời sống như nó đang là. Tôi
sẵn lòng mở to mắt trước những hoàn cảnh sống như chúng đang là. Tôi không mong
nhìn thấy chúng như là tâm linh hay mầu nhiệm, mà tôi muốn nhìn thấy chúng như
chúng thật sự đang là. Tôi trú ẩn ở Tăng (sangha). “Sangha” có nghĩa “cộng đồng
những người trên con đường tâm linh,” “những bạn đồng hành.” Tôi sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm của tôi về trọn
vẹn môi trường cuộc sống với những khách hành hương như tôi, với những người
tìm kiếm như tôi, những người bước đi cùng tôi; nhưng tôi không mong muốn dựa
vào họ để có được sự chống đỡ. Tôi chỉ muốn bước đi cùng họ. Có một khuynh hướng
nương tựa vào nhau rất nguy hiểm khi chúng ta bước đi trên con đường này. Nếu một
nhóm người dựa vào nhau thì khi có một người ngã xuống, mọi người sẽ ngã theo.
Vì thế chúng ta sẽ không nương tựa vào bất cứ ai khác. Chúng ta chỉ bước đi
cùng nhau, bên nhau, vai kề vai, làm việc với nhau, đi với nhau. Phương thức
tuân phục này, ý nghĩa trú ẩn này rất sâu xa.
Phương thức trú ẩn sai lạc liên quan đến sự tìm kiếm
nơi ẩn núp – thờ phượng thần núi, thần mặt trời, mặt trăng, thần linh các loại,
chỉ vì dường như họ vĩ đại hơn chúng ta. Loại trú ẩn này tương tợ phản ứng của
đứa bé con khi nó nói, “Nếu ông đánh tôi, tôi sẽ mách mẹ tôi,” vì nó nghĩ rằng
mẹ nó là người vĩ đại, là người có sức mạnh điển hình. Nếu bị tấn công, nơi
trông cậy tự nhiên của nó là mẹ nó, một con người bất bại, toàn tri, toàn năng.
Đứa bé tin mẹ nó có thể bảo vệ nó, với sự thật bà là người duy nhất có thể cứu
nó. Trú ẩn nơi niềm tin vào cha và mẹ đích thực là tự mình chuốc lấy thất bại;
người đi tìm nơi trú ẩn như thế không có một sức mạnh căn bản thực thụ nào cả,
không một nguồn cảm hứng đích thực. Người đó thường xuyên bôn ba tìm kiếm quyền
lực lớn hơn và nhỏ hơn. Nếu chúng ta nhỏ bé, ai đó to lớn hơn có thể đè bẹp
chúng ta. Chúng ta tìm nơi trú ẩn vì chúng ta không thể trở thành nhỏ bé và
không được bảo vệ. Chúng ta thường hay tỏ ra hối tiếc: “Tôi là một vật nhỏ bé
như thế, nhưng tôi công nhận phẩm chất vĩ đại của các ngài. Tôi muốn thờ phượng
và gia nhập vào sự vĩ đại của các ngài, vì thế các ngài làm ơn bảo vệ tôi chứ?”
Tuân phục không phải là vấn đề trở thành thấp hèn và
ngu dốt; cũng không phải muốn được nâng cao và trở nên sâu sắc. Nó chẳng liên
quan gì đến thứ bậc và sự đánh giá. Thay vì thế, chúng ta tuân phục vì chúng ta
muốn kết nối với thế giới “như nó đang là.” Chúng ta không phải phân loại chúng
ta là người học thức hay người ngu dốt. Chúng ta biết mình đứng ở đâu, vì thế
chúng ta thể hiện cử chỉ tuân phục, cởi mở, mang ý nghĩa truyền thông, kết nối,
liên lạc trực tiếp với đối tượng chúng ta tuân phục. Chúng ta không phải bối rối
về sự gom góp phong phú các phẩm tính non dại, thô thiển, đẹp đẽ và sạch sẽ của
chúng ta. Chúng ta trình hiện mọi thứ trước đối tượng chúng ta tuân phục. Hành
động tuân phục căn bản không liên quan đến việc thờ phượng một quyền năng ngoại
giới. Đúng hơn, tuân phục có nghĩa là làm việc cùng với niềm hứng khởi, để ta
trở thành một cái thùng chứa cho sự hiểu biết có thể được rót vào.
Như thế, sự cởi mở và tuân phục là những chuẩn bị cần
thiết cho sự làm việc với một người bạn tâm linh. Chúng ta nhìn nhận sự giàu có
căn bản của chúng ta hơn là than khóc cho sự nghèo hèn tưởng tượng của hiện thể
chúng ta. Chúng ta biết mình xứng đáng nhận lãnh giáo pháp, xứng đáng kết nối tự
thân với các cơ hội phong phú dành cho việc học hỏi.
******
Chương 3: Đạo Sư
Đến với việc học hỏi đời sống
tâm linh, chúng ta gặp phải vấn đề mối liên hệ của chúng ta với một vị thầy,
lama, guru, hay bất cứ danh xưng gì chúng ta dùng để gọi người chúng ta nghĩ sẽ
cho chúng ta sự hiểu biết về tâm linh. Ở phương Tây, những danh xưng này, đặc
biệt là từ “guru,” đã mang các ý nghĩa và các sự liên tưởng bị hiểu lệch đi, và
thường thêm vào sự mơ hồ chung quanh vấn đề có ý nghĩa gì khi học với một người
thầy tâm linh. Điều này không có nghĩa người phương Đông thì hiểu được cách
liên hệ với một guru còn người phương Tây thì không. Vấn đề ở đây là vấn đề
chung. Người ta luôn luôn tìm đến việc học hỏi tâm linh với một số ý tưởng định
sẵn trong đầu về cái người ta sắp đạt được và về cách cư xử với người mà họ
nghĩ sẽ cho họ cái đó. Chính ý tưởng chúng ta sẽ đạt được cái gì đó từ một guru – hạnh phúc, tâm an, trí huệ, bất cứ
cái gì chúng ta tìm kiếm – là một trong những định kiến khó khăn nhất. Vì thế,
tôi nghĩ sẽ rất hữu ích nếu chúng ta khảo sát cách thức theo đó một số người học
nổi tiếng đã giải quyết vấn đề liên hệ với tâm linh và với một vị thầy tâm linh
như thế nào. Có lẽ những thí dụ này sẽ phù hợp với sự tìm kiếm của riêng mỗi
người chúng ta.
Một trong những bậc thầy nổi
tiếng nhất ở Tây tạng, và cũng là một trong những guru chính của dòng truyền thừa
Kagyü mà tôi là một thành viên, là Marpa. Ông là học trò của vị thầy người Ấn
Naropa và là guru của Milarepa, đứa con tinh thần nổi tiếng nhất của ông. Marpa
là thí dụ về một người đang trên đường trở thành một con người tự lập thành
công. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân, nhưng khi còn trẻ đã có nhiều
tham vọng, và đã chọn con đường học vấn cũng như đời sống tu tập làm con đường
đến đỉnh vinh quang. Chúng ta có thể tưởng tượng được sự nỗ lực và quyết tâm khủng
khiếp đến dường nào đối với đứa con trai của một nông dân khi đưa mình lên vị
trí của một tu sỹ trong truyền thống tôn giáo ở địa phương mình. Chỉ có một ít
con đường dành cho những người muốn đạt đến bất kỳ địa vị nào ở Tây tạng vào thế
kỷ thứ mười – làm một lái buôn, một tên cướp, nhất là một tu sỹ. Gia nhập được
giáo đoàn địa phương vào thời đó gần như tương đương với việc trở thành một bác
sỹ, một luật sư, một giáo sư đại học; tất cả cuộn làm một.
Marpa bắt đầu bằng việc học
tiếng Tây tạng, tiếng Phạn, một số ngôn ngữ khác và khẩu ngữ Ấn. Sau khoảng ba
năm học tập như thế, ông đủ thành thạo để trở thành một học giả kiếm ra tiền;
và với số tiền này ông đã đài thọ cho việc học tập tôn giáo của mình, và cuối
cùng đã trở thành một tu sỹ Phật giáo chung chung. Một địa vị như thế đã mang lại
một thứ bậc danh vọng nào đó ở địa phương, nhưng Marpa còn tham vọng hơn. Và vì
thế, mặc dù đã có vợ và có gia đình, ông vẫn tiếp tục để dành thu nhập cho đến
khi tích lũy được một lượng vàng lớn.
Vào lúc đó Marpa mới thông
báo cho bà con họ hàng biết ý định của ông là đi sang Ấn-độ để thu thập nhiều
giáo pháp hơn. Ấn-độ vào thời điểm đó là trung tâm Phật học của thế giới, là
quê hương của đại học Nalanda, của các nhà hiền triết và học giả vĩ đại nhất của
Phật giáo. Ý định của Marpa là học hỏi và thu thập các kinh điển Tây tạng chưa
hề biết đến, mang về nước và phiên dịch. Như thế đã xây dựng mình trở thành một
học-dịch giả vĩ đại. Hành trình đến Ấn vào thời đó, và kể cả chỉ mới gần đây
thôi, là một hành trình xa xôi và nguy hiểm. Gia đình Marpa và các vị trưởng
lão đã cố thuyết phục ông từ bỏ ý định đó; nhưng chí đã quyết, vì thế Marpa lên
đường, cùng với một người bạn, cũng là học giả như ông.
Sau cuộc hành trành khó
khăn khoảng vài tháng, họ đã băng qua dãy Hi-mã-lạp-sơn vào Ấn và đi tiếp đến
Bengal thì chia tay. Cả hai đều có tư chất tốt trong việc học ngôn ngữ và tôn
giáo; vì thế họ quyết định đi tìm vị thầy riêng cho mình, thích hợp với căn cơ
của mỗi người. Trước khi chia tay, họ hẹn gặp lại nhau trong chuyến hành trình
trở về quê nhà.
Trong khi đang lang thang
khắp đất nước Nepal, Marpa đã tình cờ nghe được tên tuổi của Naropa, một người
thầy có tiếng tăm lừng lẫy. Naropa là Sư trưởng viện đại học Nalanda, có lẽ là
trung tâm Phật học vĩ đại nhất thế giới từng biết đến. Ở đỉnh cao nghề nghiệp,
cảm thấy rằng mình đã hiểu được ý nghĩa từng từ từng câu nhưng vẫn không nắm được
thực nghĩa của giáo pháp, Naropa đã từ giả chức vụ và lên đường tìm kiếm một
guru. Trong mười hai năm ông đã chịu đựng biết bao gian khổ dưới tay thầy mình
là Tilopa, cho đến khi cuối cùng ông đạt ngộ. Vào lúc Marpa nghe được tên tuổi
của Naropa thì ông đã nổi tiếng là một trong những thánh giả Phật giáo vĩ đại
nhất còn sống. Dĩ nhiên là Marpa lên đường đi tìm ông.
Cuối cùng Marpa tìm thấy
Naropa đang sống thanh bần trong một căn nhà nhỏ ở vùng rừng núi Bengal. Ông đã
hy vọng diện kiến một bậc thầy vĩ đại như thế trong một bối cảnh tôn giáo tiến
hóa cao thuộc dạng nào đó; và vì thế ông đã khá thất vọng. Tuy nhiên, sự lạ
lùng của đất nước vừa đặt chân đến làm ông hơi bối rối; và ông sẵn lòng chiếu cố
người thầy tương lai của mình, nghĩ rằng đây có lẽ là lối sống của những bậc thầy
người Ấn. Đồng thời, sự quý trọng tên tuổi của Naropa cũng đã làm nhẹ đi nỗi thất
vọng của ông. Vì thế, ông đã cúng dường hầu hết số vàng để xin Naropa ban cho
giáo pháp. Ông giải thích là ông đã lập gia đình, là một tu sỹ, một học giả và
một nông dân đến từ Tây tạng, và ông không muốn từ bỏ cuộc sống mà ông đã tạo dựng
cho chính mình; tuy nhiên ông muốn sưu tập giáo pháp, mang về nước phiên dịch để
có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Naropa chấp nhận lời thỉnh cầu của Marpa một
cách dễ dàng, ban cho ông các huấn thị; và mọi chuyện xảy ra suôn sẻ.
Sau một thời gian Marpa quyết
định trở về nhà vì đã thâu thập các giáo pháp đầy đủ như ý muốn. Ông đi đến một
quán trọ ở một thị trấn lớn, nơi ông gặp lại người bạn đồng hành. Cả hai ngồi
xuống so sánh thành quả các nỗ lực của mình. Khi nhìn thấy những gì Marpa đã
thu thập được, người bạn cười nói, “Những thứ ông có ở đây chẳng có giá trị gì
hết! Ở Tây tạng chúng ta đã có cả rồi. Lẽ ra ông phải kiếm cái gì đó thật hiếm
và thú vị hơn. Tôi tìm được những giáo pháp vô cùng đặc biệt, những giáo pháp
tôi đã thọ nhận từ các vị thầy rất vĩ đại.”
Dĩ nhiên Marpa vô cùng bối
rối và chán nản, sau khi đã trải qua một cuộc hành trình dài với nhiều khó khăn
và tốn kém như thế. Ông quyết định tìm lại Naropa, và cố gắng một lần nữa. Khi
trở lại căn lều của Naropa để thỉnh cầu các giáo pháp quý hiếm và cao siêu hơn,
Marpa đã ngạc nhiên khi Naropa bảo, “Tôi rất lấy làm tiếc; ông không thể nhận
được những giáo pháp này ở nơi tôi. Ông sẽ phải đi nhận chúng từ một người
khác, một người tên Kukuripa. Đường sẽ rất khó đi vì ông ta sống trên một hòn đảo
nằm giữa hồ nước độc. Nhưng ông ấy là người độc nhất ông phải gặp, nếu ông muốn
những giáo pháp như thế.”
Lúc đó Marpa đã liều mạng rồi
nên ông quyết định đi thử xem thế nào. Vả lại, nếu Kukurika có các giáo pháp mà
ngay cả Naropa cũng không thể ban cho ông, thêm vào đó Kukurika lại sống giữa một
hồ nước độc, thì chắc chắn ông ta phải là một người thầy phi thường, một nhà
huyền thuật vĩ đại.
Thế là Marpa lên đường, tìm
cách băng qua hồ để đến hòn đảo nơi ông bắt đầu tìm kiếm Kukurika. Ở đó ông tìm
thấy một ông già người Ấn, sống giữa đống rác rưởi với hàng trăm con chó cái
vây quanh. Một cảnh tượng thật dị thường; nhưng Marpa vẫn cố nói chuyện với
Kukurika. Tất cả những gì ông nhận được là những câu nói lắp bắp. Hình như
Kukurika đang nói những điều hoàn toàn vô nghĩa.
Bấy giờ tình cảnh hầu như
không thể nào chịu đựng được nữa. Không chỉ lời nói của Kukurika hoàn toàn khó
hiểu, mà Marpa còn phải thường xuyên canh chừng đàn chó cái. Ngay khi ông có thể
đến gần được một con thì một con khác lại sủa lên và đe dọa cắn ông. Cuối cùng,
hầu như không tự chủ được, Marpa từ bỏ tất cả, từ bỏ việc ghi chú, từ bỏ nỗ lực
lãnh thọ bất kỳ giáo pháp mật truyền nào. Và vào đúng lúc đó Kukurika bắt đầu
nói với ông bằng một giọng nói nhất quán, hoàn toàn dễ hiểu; những con chó cũng
thôi quấy rầy ông và Marpa thọ nhận được giáo pháp.
Sau khi học xong với
Kukurika, Marpa trở lại với người thầy đầu tiên của mình một lần nữa. Naropa bảo
ông, “Bây giờ ông phải trở về Tây tạng và bắt đầu việc hoằng hóa. Lãnh thọ giáo
pháp về mặt lý thuyết thì chưa đủ. Ông phải xuyên suốt những kinh nghiệm sống.
Rồi ông có thể trở lại và học thêm nữa.”
Marpa tìm gặp lại người bạn
đồng hành, và họ cùng nhau bắt đầu cuộc hành trình dài trở lại Tây tạng. Người
bạn của Marpa cũng đã học được nhiều. Cả hai mang về rất nhiều kinh sách chép
tay; và vừa đi, họ vừa bàn luận về những điều đã học. Chẳng bao lâu, Marpa bắt
đầu cảm thấy khó chịu về người bạn đường. Hình như càng lúc ông ta càng tò mò
muốn biết Marpa đã thu thập những giáo pháp gì. Câu chuyện của họ hình như ngày
càng xoay quanh chủ đề này, cho đến cuối cùng ông ta đoan chắc là Marpa đã nhận
được các giáo pháp có giá trị hơn mình, và ông ta rất ganh tỵ. Khi họ đón phà
qua một con sông, ông ta bắt đầu phàn nàn ông không thấy thoải mái giữa đống
hành lý hai người đã mang theo. Ông ta dời chỗ trên thuyền, làm như để cảm thấy
thoải mái hơn, và trong khi làm thế, ông đã làm cho tất cả các thủ bản của
Marpa rơi hết xuống sông. Marpa đã cố gắng vớt lấy một cách vô vọng vì chẳng mấy
chốc tất cả đều chìm xuống nước. Tất cả ghi chép mà ông đã trải qua một cuộc
hành trình gian khổ như thế mới có được nay đã biến mất trong phút chốc.
Thế là Marpa trở lại Tây tạng
cùng với cảm giác mất mát lớn lao. Ông có nhiều chuyện để kể về chuyến đi và việc
học tập của mình, nhưng không có gì vững chắc để chứng thực hiểu biết cũng như
kinh nghiệm của mình. Tuy nhiên, ông vẫn bỏ ra vài năm để làm việc và giảng dạy,
cho đến khi ông ngạc nhiên, bắt đầu ý thức rằng những gì ông ghi chép được đều
vô ích đối với ông cho dù ông có lưu giữ được đi nữa. Khi còn ở Ấn, ông chỉ ghi
chép những phần giáo pháp mà ông không hiểu. Ông đã không ghi lại những giáo
pháp nào đã trở thành một phần kinh nghiệm riêng của ông. Chỉ vài năm sau Marpa
mới khám phá được rằng những giáo pháp đó đã thật sự trở thành một phần của con
người ông.
Với khám phá này, Marpa vứt
bỏ mọi ham muốn thủ lợi từ giáo pháp. Ông không còn quan tâm đến việc kiếm tiền
hay xây dựng uy tín; thay vì thế, ông bắt đầu thấy có hứng khởi với việc thành
tựu giác ngộ. Thế là ông lại gom góp vàng bột để làm vật phẩm cúng dường thầy
mình là Naropa và lại bắt đầu hành trình đến Ấn. Lần này ông đi mà lòng đầy
mong muốn gặp được guru của mình và ước mơ lãnh thụ được nhiều giáo pháp.
Thế nhưng, lần gặp gỡ kế tiếp
của ông với Naropa đã khác hẳn trước đây. Naropa dường như rất lạnh lùng và vô
cảm, gần như oán hận; và những lời đầu tiên ông dành cho Marpa là, “Thật hay
khi gặp lại ông. Ông có bao nhiêu vàng để đổi lấy giáo pháp của ta?” Marpa đã
mang theo một lượng lớn vàng nhưng muốn dành lại một số để chi phí riêng và trở
về nhà; vì thế ông mở túi và trao cho Naropa chỉ một phần. Naropa nhìn số cúng
phẩm rồi nói, “Không, chừng đó không đủ. Ta cần nhiều vàng hơn nữa mới trao
giáo pháp cho ông được. Hãy đưa ta hết số vàng của ông.” Marpa trao cho ông một
ít nữa, nhưng Naropa vẫn đòi lấy hết; và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi Naropa
cười nói, “Ông tưởng có thể mua lời dạy của ta bằng sự lường gạt của ông sao?”
Nghe thế, Marpa đành chịu thua và trao cho Naropa toàn bộ số vàng mang theo. Thế
rồi, trước sự sửng sốt của Marpa, Naropa ném tung tất cả vàng bột lên trời.
Đột nhiên Marpa cảm thấy cực
kỳ bối rối và hoang tưởng. Ông không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ông đã làm
việc cực nhọc mới có vàng để mua giáo pháp ông muốn. Và Naropa hình như đã chỉ
rõ rằng ông ta cần vàng và sẽ dạy Marpa giáo pháp để đổi lấy vàng. Thế nhưng
ông ta đang ném đi tất cả! Rồi Naropa bảo ông, “Ta cần vàng để làm gì? Toàn thể
thế giới là vàng dành cho ta.”
Đây là giây phút trọng đại
dành cho sự khai mở đối với Marpa. Ông mở toang và có thể thọ lãnh giáo pháp.
Ông ở lại với Naropa một thời gian dài, và sự tu tập của ông cực kỳ khắc khổ.
Nhưng ông không chỉ nghe pháp giống như trước; ông phải tự tìm đường đi thông
qua giáo pháp. Ông phải từ bỏ mọi thứ ông có, không chỉ của cải vật chất, mà bất
cứ thứ gì ông đang giữ lại ở trong đầu cũng phải ra đi. Đó là một tiến trình liên
tục của sự khai mở và tuân phục.
Trong trường hợp của
Milarepa, hoàn cảnh diễn biến hoàn toàn khác. Ông là một nông dân, ít học và
không sành sỏi như Marpa lúc gặp Naropa. Ông cũng đã gây ra nhiều tội lỗi kể cả
sát sinh. Cuộc đời ông bất hạnh khốn cùng nhưng lại khao khát giác ngộ và sẵn
sàng trả bất cứ chi phí nào Marpa yêu cầu. Vì thế Marpa đã bắt Milarepa phải trả
ở mức vật chất rất cụ thể. Ông bắt Milarepa xây một loạt nhà cho ông, cái này đến
cái kia; và sau khi mọi cái đều hoàn tất, ông bảo Milarepa phá hủy hết và mang
tất cả số đá xây trả lại chỗ cũ, để không làm mất vẻ thẩm mỹ của cảnh quang. Mỗi
lần bảo Milarepa tháo dỡ một ngôi nhà, ông lại đưa ra một cái cớ rất phi lý, chẳng
hạn ông đã say rượu khi ra lệnh xây ngôi nhà hoặc ông không bao giờ bảo xây một
ngôi nhà như thế. Và mỗi lần như thế, Milarepa, vì khao khát lãnh thọ giáo
pháp, đã phải phá đi ngôi nhà và bắt đầu xây dựng lại.
Cuối cùng Marpa vẽ mẫu một
cái tháp chín tầng. Milarepa đã chịu khổ nhọc cực kỳ kinh khủng để vận chuyển
đá và xây dựng ngôi tháp; và khi hoàn tất, ông đã đến gặp Marpa và thỉnh cầu
giáo pháp một lần nữa. Nhưng Marpa nói với ông, “Ông muốn nhận lãnh giáo pháp của
ta, đúng như thế, chỉ vì ông đã xây cái tháp cho ta chứ gì? Hừm, ta e là ông vẫn
phải dâng cho ta một món quà để làm phí nhập môn đấy.”
Lúc đó, Milarepa chẳng còn
lại bất cứ một vật sở hữu nào; ông đã dành trọn thời gian và sức lực vào việc
xây dựng nhà cửa cho Marpa. Thế nhưng người vợ của Marpa là Damema đã cảm
thương ông và bảo, “Những tòa tháp cậu đã xây là một cử chỉ thành tâm cống hiến
tuyệt vời. Chắc chắn chồng tôi sẽ không để tâm nếu tôi cho cậu vài bao lúa mạch
và một cuộn vải để làm lễ vật nhập môn.” Thế là Milarepa mang vải và lúa mạch đến
nơi làm lễ nhập môn. Marpa đang giảng dạy ở đó. Milarepa dâng các lễ vật của
mình, cùng chung các lễ vật của những người học khác. Nhưng Marpa, khi nhận ra
các vật phẩm của Milarepa, đã nổi cơn thịnh nộ và quát mắng ông, “Những vật này
thuộc về tao, mày là đồ đạo đức giả! Mày cố lừa gạt tao hả!” Và ông ta đã đá
Milarepa văng ra khỏi vòng tròn hành lễ.
Vào lúc đó Milarepa đã hết
mọi hy vọng cầu xin Marpa ban cho giáo pháp. Trong nỗi tuyệt vọng, ông đã quyết
định tự vẫn. Nhưng đúng vào lúc đó, Marpa đã đi đến và bảo ông rằng ông hãy chuẩn
bị để lãnh thọ giáo pháp.
Tiến trình thọ nhận giáo
pháp tùy thuộc những gì người học đã cho đi để đáp lại; một dạng tuân phục về mặt
tâm lý, một tặng phẩm thuộc loại nào đó. Đây là lý do tại sao chúng ta phải bàn
đến sự tuân phục, sự cởi mở, sự từ bỏ mọi mong đợi, trước khi chúng ta có thể
nói về mối tương quan giữa thầy và trò. Điều cốt yếu là sự tuân phục, sự mở rộng,
sự hiển lộ bản thân trước guru của mình, chứ không phải sự phô bày bản thân như
một người học trò có nhiều triển vọng. Không quan trọng vấn đề bạn sẵn sàng trả
ơn bao nhiêu, bạn cư xử đúng đắn như thế nào, bạn khôn khéo thế nào khi nói ra
những điều hợp lý với người thầy của bạn. Nó không giống như khi phỏng vấn để
xin việc làm hay khi đi mua một chiếc xe mới. Việc bạn có được nhận vào làm hay
không tùy thuộc mức độ đáng tin cậy của bạn, bạn ăn mặc lịch sự như thế nào,
đôi giày của bạn đánh bóng đẹp như thế nào, bạn nói năng khéo như thế nào,
phong cách bạn tốt như thế nào. Nếu bạn mua một chiếc xe hơi thì bạn có bao
nhiêu tiền, tín dụng của bạn tốt như thế nào.
Thế nhưng khi đến với vấn đề
tâm linh, người ta cần đến một cái gì đó khác hơn. Đó không phải là việc đi xin
việc làm, việc ăn mặc để gây ấn tượng với người chủ tương lai. Sự đánh lừa như
thế không áp dụng được trong cuộc phỏng vấn với guru, vì ông nhìn thấy xuyên suốt
chúng ta. Ông sẽ thấy buồn cười nếu chúng ta ăn diện bảnh bao cho cuộc phỏng vấn.
Thể hiện các điệu bộ cử chỉ lấy lòng thì không áp dụng được trong hoàn cảnh
này; thật vậy, chẳng có ích gì. Chúng ta phải thật tâm cởi mở với thầy chúng
ta; chúng ta phải sẵn lòng vứt bỏ mọi định kiến. Milarepa đã mong đợi ở Marpa
cái cốt cách của một học giả vĩ đại, một con người thánh thiện, trong trang phục
du-già với các xâu chuỗi, tụng đọc thần chú, thiền tọa. Nhưng thay vì thế, ông
đã nhìn thấy Marpa làm việc ngoài đồng, điều động người giúp việc, và cày ruộng.
Tôi sợ rằng từ ngữ “guru”
đang bị lạm dụng ở phương Tây. Tốt nhất là ta nên hiểu như một “người bạn tâm
linh” của mình, vì giáo pháp nhấn mạnh đến sự gặp gỡ hỗ tương giữa hai tâm thức.
Đó là vấn đề tương dung tương nhiếp, hơn là mối quan hệ chủ-tớ giữa một sinh vật
tiến hóa cao và một tồn tại khổ đau, ngớ ngẩn. Trong quan hệ chủ-tớ, sinh vật
tiến hóa cao có thể xuất hiện không phải trong tư thế ngồi mà dường như đang lơ
lửng bay cao, nhìn xuống chúng ta. Tiếng nói của sinh vật đó đang xuyên qua,
đang bao trùm khắp không gian. Mỗi lời, mỗi tiếng ho, mỗi động tác là một cử chỉ
của minh triết. Nhưng đó là một giấc mơ. Một guru phải là một người bạn tâm
linh, truyền đạt và trình hiện các phẩm tính của người đó trước chúng ta, như
Marpa đã làm với Milarepa, và Naropa với Marpa. Marpa trình hiện phẩm tính của
một nhà du-già-nông-dân. Ông đã ngẫu nhiên có bảy người con và một người vợ;
ông chăm sóc trang trại của mình, cày cấy mảnh đất của mình, nuôi sống bản thân
và gia đình. Nhưng những hoạt động này chỉ là một phần bình thường của cuộc đời
ông. Ông lo cho học trò cũng giống như ông lo các vụ mùa và gia đình. Ông quán
xuyến như thế, để tâm đến mọi chi tiết của cuộc sống mình, đến độ ông có thể
làm một người thầy có năng lực cũng như một người cha, một nông phu có năng lực.
Không có một khuynh hướng vật chất thuần túy hay mang tính tâm linh nào cả
trong lối sống của Marpa. Ông không coi trọng tâm linh mà lơ là gia đình, cũng
không coi trọng tương quan vật lý đối với trái đất. Nếu ông không dính líu gì đến
khuynh hướng vật chất, hoặc tâm linh hoặc thể xác, vậy thì không có sự nhấn mạnh
nào được tìm thấy ở hai cực đoan.
Cũng chẳng ích gì khi chọn
người nào đó làm guru của bạn chỉ vì người đó nổi tiếng, chẳng hạn một người nổi
tiếng đã xuất bản hàng đống sách và chuyển hóa cho hàng ngàn hàng triệu người.
Thay vì thế, nguyên tắc dẫn đạo là bạn có đủ khả năng kết nối thật sự với người
đó, một cách thẳng thắn và xuyên suốt, hay không. Bạn còn dính mắc nhiều hay ít
với việc tự đánh lừa mình? Nếu bạn thật sự mở toang bản thân trước người bạn
tâm linh của bạn, thì cả hai chắc chắn sẽ làm việc cùng nhau. Bạn có thể nói
chuyện với người đó một cách triệt để và đúng đắn không? Người đó có biết gì về
bạn không? Người đó có biết gì về chính bản thân không? Vị guru có thật sự đủ
khả năng nhìn xuyên tấm mặt nạ của bạn, tiếp cận bạn một cách đúng đắn, thẳng
thắn không? Trong việc tìm kiếm một người thầy, điều này dường như mới là
nguyên tắc dẫn đạo, hơn là tiếng tăm hay minh triết.
Có một câu chuyện thú vị về
một nhóm người quyết định đến xin học đạo với một vị thầy nổi tiếng ở Tây tạng.
Họ đã học trước đó một ít với các vị thầy khác, nhưng đã quyết định tập trung học
với người thầy đặc biệt này. Tất cả đều nóng lòng được trở thành học trò của ông,
và vì thế đã tìm cách diện kiến ông; nhưng ông thầy vĩ đại này đã không nhận lời
bất cứ người nào trong số họ. Ông nói, “Tôi sẽ nhận các vị với điều kiện là các
vị sẵn sàng từ bỏ những người thầy trước đây của các vị.” Tất cả đều cầu xin
ông, nói với ông là họ tin tưởng ông như thế nào, tên tuổi ông lừng lẫy như thế
nào, và họ mong muốn được học với ông nhiều đến mức độ nào. Nhưng ông không nhận
bất cứ ai nếu không đáp ứng điều kiện ông đã đặt ra. Cuối cùng, chỉ trừ một người
trong nhóm, còn lại tất cả đều quyết định từ bỏ những người thầy trước đây, những
người đã thật sự trao cho họ rất nhiều điều. Vị guru dường như rất sung sướng
khi họ làm thế và bảo tất cả ngày mai hãy trở lại. Nhưng khi họ trở lại, ông đã
nói với họ, “Ta hiểu hành vi đạo đức giả của các ngươi. Lần tới khi các ngươi đến
với một thầy khác, các người cũng sẽ từ bỏ ta. Vì thế hãy bước đi.” Và ông đuổi
tất cả, trừ người đã xem trọng những điều đã học được trước đây. Người được ông
thâu nhận không muốn chơi trò chơi dối trá, không muốn làm vừa lòng một guru bằng
cách giả vờ làm ra vẻ khác đi với những gì mình đang là. Nếu quý vị có ý định
làm bạn với một người thầy tâm linh, quý vị phải làm bạn một cách giản dị, khơi
mở, để sự kết nối xảy ra giữa những người ngang nhau, hơn là cố lôi kéo người
thầy về phía mình. Để được vị guru thâu nhận như một người bạn, bạn phải khơi mở
trọn vẹn chính mình. Và để bạn có thể khơi mở, có lẽ bạn sẽ trải qua những lần
thử thách bởi người bạn tâm linh và bởi hoàn cảnh sống nói chung, tất cả những
thử thách này đều có dạng thất vọng. Ở giai đoạn nào đó bạn sẽ nghĩ người bạn
tinh thần của mình chẳng có chút tình cảm nào, cảm xúc nào đối với bạn cả. Điều
này nhằm giải quyết tính cách đạo đức giả của bạn. Đạo đức giả, sự giả vờ và sự
quanh co căn bản của tự ngã thì cực kỳ cứng rắn; nó có một lớp da rất dày.
Chúng ta thường có khuynh hướng mang các bộ áo giáp, cái này chồng lên cái kia.
Sự đạo đức giả này dày đặc và có nhiều lớp đến độ ngay khi lấy đi một lớp thì
ta lại có một lớp khác ở bên dưới. Chúng ta hy vọng chúng ta sẽ không phải trần
trụi hoàn toàn. Chúng ta hy vọng lột đi chỉ một vài lớp sẽ giúp chúng ta trình
hiện được mình. Rồi chúng ta xuất hiện trong một bộ giáp mới, với một khuôn mặt
đang cố gắng lấy lòng người khác, nhưng người bạn tâm linh của chúng ta thì
không mang áo giáp nào cả. Ông ta là một con người trần trụi. So với sự trần trụi
của ông, chúng ta đang mặc xi-măng. Áo giáp của chúng ta dày đến độ ông bạn
không cảm giác được làn da của chúng ta, thân thể chúng ta. Thậm chí ông cũng
không thể thấy khuôn mặt chúng ta chính xác. Có nhiều câu chuyện kể về mối liên
hệ thầy-trò trong quá khứ, trong đó trò phải trải qua những cuộc hành trình
dài, chịu đựng nhiều gian khổ cho đến khi sự lôi cuốn và các động lực bắt đầu
hao mòn. Điều này dường như mới là điểm cốt lõi: tự thân động lực kiếm tìm cái
gì đó là một cảm giác bứt rứt, khó chịu. Khi động lực này bắt đầu héo mòn thì sự
trần trụi căn bản của chúng ta bắt đầu xuất hiện và sự giao hội giữa hai tâm bắt
đầu xảy ra.
Người ta nói rằng giai đoạn
đầu của việc hội ngộ người bạn tâm linh của mình giống như đi vào một siêu thị.
Bạn thấy phấn chấn và mơ về tất cả những thứ khác mà bạn sắp mua: sự giàu có của
người bạn tâm linh và những phẩm tính rực rỡ của nhân cách bạn. Giai đoạn thứ
hai của quan hệ này giống như ra tòa, làm như bạn là tội phạm. Bạn không thể
đáp ứng các đòi hỏi của người bạn tâm linh, và bạn bắt đầu cảm thấy e dè; bởi
vì bạn biết ông ta biết nhiều về bạn giống như bạn biết vậy, một điều khiến bạn
rất bối rối. Ở giai đoạn thứ ba, khi bạn đến gặp người bạn tâm linh, nó giống
như nhìn thấy một con bò đang sung sướng gặm cỏ ngoài đồng. Bạn chỉ thán phục sự
tĩnh lặng của nó cũng như cảnh vật, rồi đi tiếp. Cuối cùng, giai đoạn thứ tư với
người bạn tâm linh giống như vượt qua một tảng đá trên đường. Thậm chí bạn còn
không chú ý đến; bạn chỉ vượt qua rồi đi tiếp.
Lúc mới bắt đầu, một loại
ve vãn guru bắt đầu diễn ra, một chuyện yêu đương. Bạn có thể lôi kéo con người
này đến với bạn được bao nhiêu? Có một khuynh hướng muốn cận kề người bạn tâm
linh hơn, vì bạn thật sự muốn học. Bạn cảm thấy ngưỡng mộ ông ấy biết bao.
Nhưng cùng lúc, ông ta rất đáng sợ; ông ta lảng tránh bạn. Hoặc vì hoàn cảnh
không khế hợp với những mong chờ của bạn; hoặc vì bạn có cảm giác e dè là bạn
không thể nào cởi mở một cách triệt để được. Một quan hệ thương-ghét, một loại
tiến trình tuân phục và xa lánh đang phát triển. Nói cách khác, chúng ta bắt đầu
chơi một trò chơi, trò chơi muốn khơi mở, muốn dính vào một chuyện tình với
guru của chúng ta, và rồi muốn chạy trốn ông ấy. Nếu chúng ta quá kề cận ông bạn
tâm linh của chúng ta, chúng ta bắt đầu cảm thấy ông làm cho chúng ta mê mẩn. Một
câu tục ngữ xưa ở Tây tạng nói rằng, “Một guru giống như một đám lửa. Nếu bạn đến
quá gần, bạn sẽ bị đốt cháy; nếu bạn ở quá xa, bạn không có đủ hơi ấm.” Loại
tán tỉnh ve vãn này xảy ra về phía học trò. Bạn có khuynh hướng đến quá gần thầy,
nhưng nếu làm thế bạn sẽ bị đốt cháy. Thế là bạn muốn tránh xa hoàn toàn.
Cuối cùng, mối quan hệ này
bắt đầu có thực chất và bền chắc. Bạn bắt đầu ý thức rằng muốn gần và muốn xa
guru chỉ là trò chơi của bạn. Nó chẳng liên quan gì đến hoàn cảnh thực thụ của
bạn, mà chỉ là ảo giác của riêng bạn. Guru hay người bạn tâm linh luôn luôn ở
đó, bùng cháy, luôn luôn là một đám lửa của cuộc sống. Bạn có thể chơi những
trò chơi với ông ấy hoặc không, tùy bạn chọn.
Rồi thì mối quan hệ với người
bạn tâm linh bắt đầu trở nên rất sáng tạo. Bạn chấp nhận tình cảnh bị ông ấy
khuất phục và rời xa ông ấy. Nếu ông ấy quyết định đóng vai một tảng băng lạnh,
bạn chấp nhận. Nếu ông ấy quyết định đóng vai lửa nóng, bạn chấp nhận. Không gì
có thể lay chuyển bạn được cả, và bạn đi đến sự hòa giải với guru của bạn.
Giai đoạn kế tiếp là bạn bắt
đầu đánh mất cảm hứng riêng của bạn sau khi đã chấp nhận mọi cái người bạn tâm
linh đã làm. Bởi vì bạn đã hoàn toàn tuân phục, hoàn toàn từ bỏ. Bạn cảm thấy
mình giảm xuống thành một hạt bụi. Bạn trở thành vô nghĩa. Bạn bắt đầu cảm thấy
rằng thế giới duy nhất hiện hữu là thế giới của người bạn tâm linh này, guru.
Nó giống như bạn đang xem một cuốn phim hấp dẫn; cuốn phim thú vị đến độ bạn trở
thành một phần trong đó. Không có bạn và rạp chiếu phim, không ghế ngồi, không
người xem, không có bạn bè ngồi cạnh bạn. Cuốn phim là tất cả những gì hiện hữu.
Cái này gọi là “thời kỳ trăng mật,” trong đó mọi thứ đều được nhìn thấy như một
phần của hiện thể trung tâm này, guru. Bạn chỉ là một người vô dụng, vô nghĩa,
đang tiếp tục được nuôi dưỡng nhờ hiện thể trung tâm hấp dẫn và vĩ đại này. Bất
cứ khi nào bạn cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi hay buồn chán, bạn chỉ việc đến ngồi ở
phòng chiếu phim để tiêu khiển, tinh phần phấn chấn, người trẻ lại. Vào lúc đó,
hiện tượng sùng bái nhân cách trở thành nổi bật. Guru là con người độc nhất
trong thế giới này hiện hữu, sinh động và đầy nghị lực. Ý nghĩa cuộc đời bạn
tùy thuộc vào guru. Nếu ông ấy chết, bạn sẽ chết vì ông ấy. Nếu ông ấy sống, bạn
tiếp tục tồn tại vì ông ấy và vẫn vô nghĩa.
Tuy nhiên, câu chuyện tình
với người bạn tâm linh của bạn không kéo dài mãi mãi. Không sớm thì muộn, sự
mãnh liệt của nó cũng phải tàn phai, và bạn phải đối mặt với hoàn cảnh sống của
bạn, tâm lý riêng của bạn. Nó giống như người ta đã cưới nhau và đã kết thúc tuần
trăng mật. Bạn không chỉ cảm thấy có ý thức về người tình của bạn như tâm điểm
của sự chú tâm của bạn, mà bạn còn bắt đầu để ý đến lối sống của chàng hay nàng
nữa. Bạn bắt đầu chú ý đến những gì khiến cho con người này trở thành một người
thầy, vượt lên những giới hạn của cá thể tính và nhân cách của chính con người
đó. Như vậy, nguyên lý về “tính phổ quát của guru” cũng đã được hình dung rõ ràng.
Mọi vấn đề bạn gặp trong đời sống là một phần cuộc hôn nhân của bạn. Bất cứ khi
nào bạn trải qua khó khăn, bạn đều nghe được những lời của guru. Đây là thời điểm
ta bắt đầu không còn phụ thuộc vào guru như một người tình; bởi vì mỗi hoàn cảnh
đều trở thành một sự biểu tỏ của giáo pháp. Trước tiên bạn tuân phục người bạn
tâm linh của mình. Rồi bạn nối kết và chơi những trò chơi với ông ấy. Và bây giờ
bạn đã đạt đến trạng thái rộng mở hoàn toàn. Kết quả của sự rộng mở này là bạn
bắt đầu nhìn thấy phẩm tính guru trong mỗi hoàn cảnh sống; tất cả các hoàn cảnh
trong đời sống đều cống hiến cho bạn cơ hội rộng mở như bạn thường rộng mở trước
guru; và vì thế tất cả mọi cái đều có thể trở thành guru.
Milarepa đã có một cái nhìn
sâu sắc về guru của ông là Marpa trong khi đang tọa thiền trong một kỳ an cư
nghiêm ngặt ở thung lũng Hồng Ngọc. Người lả đi vì đói và bị các đại chủng hành
hạ, ông đã ngất đi khi cố gắng kiếm củi ở bên ngoài động. Khi tỉnh lại, ông
nhìn về phía đông và trông thấy những đám mây trắng ở hướng Marpa đang sống. Với
niềm khát vọng lớn lao, Milarepa hát một bài ca thỉnh cầu, kể cho Marpa nghe
ông khát khao gặp được Marpa nhiều như thế nào. Rồi Marpa hiện ra trong một
linh ảnh, cỡi một con sư tử trắng như tuyết, và nói với ông, “Con có chuyện gì
thế? Có phải tâm con đã bị loạn động? Con đã liễu ngộ giáo pháp, vậy hãy tiếp tục
tham thiền đi.” Milarepa thấy yên tâm và trở lại vào động tham thiền. Sự nương
tựa và tùy thuộc vào Marpa ở thời điểm đó cho thấy rằng ông vẫn chưa thoát ra
được ý niệm về guru như một người bạn riêng tư.
Tuy nhiên, khi trở vào, ông
thấy động đầy quỷ, mắt to như cái chảo nhưng thân chỉ bằng cỡ ngón tay cái. Ông
đã dùng mọi cách để chúng ngừng chế nhạo và hành hạ ông nhưng chúng vẫn không bỏ
đi; cho đến khi cuối cùng ông dừng lại, không cố chơi các trò chơi nữa, cho đến
khi ông nhận ra hành động đạo đức giả của mình và nhường chỗ cho sự rộng mở
hoàn toàn. Từ lúc đó trở đi, quý vị thấy được một sự thay đổi mênh mông về thể
cách trong các bài ca của Milarepa. Bởi vì ông đã học được cách đồng nhất với
phẩm tính phổ quát của guru, hơn là sự liên hệ đơn độc với Marpa như một cá
nhân riêng lẻ.
Người bạn tâm linh trở
thành một phần của con người bạn, đồng thời cũng là một con người riêng lẻ ngoại
tại. Một guru đúng nghĩa, cả nội tại và ngoại tại, góp một phần rất quan trọng
trong việc xuyên thủng và phơi bày những tính cách giả đạo đức của chúng ta.
Guru có thể là một người hành động như một tấm gương soi, phản chiếu con người
của bạn; hoặc sự thông minh căn bản hay sự thông minh căn bản của chính bạn
khoác lên hình thái của người bạn tâm linh. Khi guru nội tại bắt đầu hành động
thì bạn không bao giờ có thể tránh được lời yêu cầu khai mở. Sự thông minh căn
bản bám theo bạn ở mọi nơi; bạn không thể thoát được chiếc bóng của bạn. “Người
anh to lớn đang canh chừng bạn.” Mặc dù không phải các thực thể ngoại tại đang
canh chừng chúng ta và ám ảnh chúng ta; chính chúng ta ám ảnh chúng ta. Chiếc
bóng của chúng ta đang canh chừng chúng ta.
Chúng ta có thể nhìn nó
theo hai cách khác nhau. Chúng ta có thể thấy guru như một con ma, ám ảnh và chế
nhạo chúng ta về tính cách đạo đức giả của chúng ta. Có thể có một tính chất ma
quỷ trong việc ý thức về những gì chúng ta là. Thế nhưng luôn có tính chất sáng
tạo của người bạn tâm linh, vốn đã trở thành một phần của chúng ta. Sự thông
minh căn bản vẫn liên tục có mặt trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Nó sắc bén
và xuyên suốt đến độ ở một giai đoạn nào đó, cho dù bạn muốn vứt nó đi, bạn
cũng không thể. Có khi nó có một biểu hiện nghiêm khắc; có khi lại là một nụ cười
đầy cảm hứng. Truyền thống Mật tông cho rằng bạn không nhìn thấy khuôn mặt của
guru, nhưng lúc nào bạn cũng thấy được các nét biểu hiện của khuôn mặt đó. Hoặc
cười mỉm, hoặc cười toe, hoặc nhíu mày giận dữ, nó đều là một phần của hoàn cảnh
sống. Sự thông minh căn bản, hay tathagata-garbha (Như lai tạng), hay Phật tính (Buddha-nature) luôn luôn có trong mỗi
kinh nghiệm mà cuộc sống mang lại cho chúng ta. Không có sự trốn chạy được nó.
Giáo pháp lại nói rằng, “Tốt hơn đừng có bắt đầu. Một khi đã bắt đầu, tốt hơn
là nên kết thúc nó.” Vì thế, tốt hơn là bạn đừng bước vào con đường tâm linh,
trừ khi bạn phải làm thế. Một khi bạn đã bước chân vào con đường đó thì bạn đã
thật sự làm điều đó, bạn không thể bước lui. Không có cách nào trốn thoát cả.
--Hỏi: Sau khi dẫm chân qua
nhiều trung tâm tâm linh khác nhau, tôi cảm thấy rằng một nhân cách như Marpa
chắc hẳn là một hiện tượng rất phiền toái đối với hầu hết những người say mê
con đường này. Bởi vì đó là một người hình như không làm bất cứ điều gì mà mọi
người nói sẽ đưa bạn đến đó. Ông ấy không phải là người tu khổ hạnh, ông ấy
không phải là người từ bỏ. Ông trông nom công việc hàng ngày của mình. Ông là một
con người bình thường; tuy nhiên, bề ngoài, ông lại là một người thầy có khả
năng rất lớn. Có phải Marpa là người duy nhất đã thực hiện được phần lớn các khả
năng dành cho một con người bình thường mà không phải trải qua tất cả khổ đau
khủng khiếp của lối sống khổ hạnh và lối tu thanh tịnh hóa?
--Đáp: Dĩ nhiên Marpa là một
ví dụ về các khả năng mở ra cho chúng ta. Tuy nhiên, ông đã trải qua sự tu tập
và rèn luyện khủng khiếp khi ở Ấn-độ. Qua việc học tập vất vả với các vị thầy Ấn-độ,
ông đã chuẩn bị cho con đường của mình. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải hiểu ý
nghĩa đích thực của các từ “rèn luyện” và “tu khổ hạnh.” Ý nghĩa căn bản của tu
khổ hạnh (asceticism) – sống một cuộc sống phù hợp với pháp (dharma) – là tính
chất lành mạnh từ căn bản. Nếu bạn thấy rằng sống một cuộc đời bình thường là một
việc lành mạnh để làm, thì đó là pháp. Cùng lúc bạn có thể thấy rằng sống đời sống
một hành giả du-già khổ hạnh, như được mô tả trong kinh điển, có thể trở thảnh
một biểu hiện của sự không lành mạnh. Điều này tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Đó là
vấn đề cái gì thì lành mạnh đối với bạn, đối với sự tiếp cận cuộc sống một cách
ổn định, đúng đắn và bền vững. Thí dụ như đức Phật: Ngài không phải là người cuồng
tín về mặt tôn giáo, gắng sức hành động cho phù hợp với một lý tưởng cao cả nào
đó. Ngài chỉ cư xử với con người một cách giản dị, cởi mở và rất thông thái.
Trí huệ của Ngài xuất phát từ khả năng suy tư thực tiễn siêu việt
(transcendental common sense). Lời dạy của Ngài thì đúng đắn và rộng mở.
Hình như vấn đề ở đây là
người ta thường lo sợ một sự xung đột giữa tính chất tôn giáo và tính chất trần
tục. Họ thấy rất khó dung hòa cái gọi là “cái tâm cao cả” với công việc thực tế.
Thế nhưng, các phạm trù cao và thấp, đạo và đời, hình như không thật sự thích
đáng với sự tiếp cận đời sống một cách lành mạnh từ căn bản.
Marpa chỉ là một con người
bình thường, liên quan đến việc sống hết mọi chi tiết trong cuộc sống của ông.
Ông không bao giờ cố gắng làm một con người đặc biệt. Khi ông mất bình tĩnh,
ông đánh mất sự tỉnh táo và đánh đập người khác. Ông làm đúng như thế. Ông
không bao giờ đóng kịch hay giả vờ. Trái lại, những người cuồng tín tôn giáo
luôn luôn cố gắng làm thế nào để sống cho phù hợp với một kiểu mẫu được giả định
nào đó. Họ cố gắng lôi kéo người khác về phía mình bằng cách tỏ ra rất mạnh mẽ
và hăng hái, làm như họ hoàn toàn thanh tịnh và hoàn hảo. Tôi nghĩ rằng việc cố
gắng chứng thực mình hoàn hảo chỉ ra một sự sợ hãi nào đó. Marpa không có gì để
chứng thực cả. Ông chỉ là một người dân đúng nghĩa, rất lành mạnh và bình thường;
đồng thời là một con người rất sáng suốt. Thật vậy, ông là cha đẻ của toàn bộ
giòng truyền thừa Kagyü. Tất cả giáo pháp chúng ta đang tu học đều xuất phát từ
ông.
--Hỏi: Thiền tông có một
thành ngữ: “Lúc đầu núi là núi, suối là suối. Rồi núi không phải là núi, suối
không phải là suối. Nhưng cuối cùng, núi lại là núi, suối lại là suối.” Vậy, không
phải chúng ta đang ở vào giai đoạn “núi không phải là núi, suối không phải là
suối sao”? Thế nhưng, ông lại đang nhấn mạnh đến tính chất bình thường này.
Không phải chúng ta phải trải qua thời kỳ “không bình thường” này trước khi thật
sự trở nên bình thường sao?
--Đáp: Marpa bị rối loạn
khi người con trai của ông bị giết chết; và một người học trò của ông nói, “Thầy
đã từng bảo chúng con là mọi cái đều là ảo tưởng. Vậy cái chết của con trai thầy
thì sao? Đó không phải là ảo tưởng sao?” Và Marpa trả lởi, “Đúng thế, nhưng cái
chết của con trai tôi là một siêu ảo tưởng.”
Lần đầu khi chúng ta kinh
nghiệm được những cái bình thường đích thực, thì đó là cái bình thường rất phi
thường, đến độ chúng ta sẽ nói rằng núi không còn là núi, suối không còn là suối.
Bởi vì chúng ta thấy chúng bình thường như thế, chính xác như thế, “như chúng
đang là” như thế. Sự phi thường này xuất phát từ kinh nghiệm khám phá. Nhưng cuối
cùng, tính chất siêu-bình-thường này, tính chất đúng đắn này, trở thành một sự
kiện hàng ngày, một cái ta cùng sống chung không lúc nào rời, một cái thật bình
thường, và chúng ta trở lại nơi đã bắt đầu: núi là núi và suối là suối. Và rồi
chúng ta có thể nghỉ ngơi.
--Hỏi: Ông đã cởi bộ áo
giáp như thế nào? Đã rộng mở bản thân như thế nào?
--Đáp: Đó không phải là vấn
đề bạn làm như thế nào. Không có nghi
thức hay nghi lễ hay thể thức nào cho việc khai mở. Chướng ngại đầu tiên chính
là câu hỏi: “Thế nào?” Nếu bạn không tự hỏi mình, không canh chừng mình, vậy
thì bạn chỉ việc hành động. Chúng ta không xem xét chúng ta sẽ nôn như thế nào;
chúng ta chỉ nôn. Không có thời gian nghĩ về việc đó; nó chỉ xảy ra. Nếu chúng
ta căng thẳng quá, chúng ta sẽ rất đau đớn và sẽ không có thể nôn được. Chúng
ta sẽ cố nuốt trở lại, cố chiến đấu với cơn bệnh của chúng ta. Chúng ta phải học
nghỉ ngơi khi chúng ta bị bệnh.
--Hỏi: Khi các hoàn cảnh của
cuộc sống bắt đầu trở thành guru của ông, có nhất thiết hoàn cảnh đó phải có một
dạng như thế nào đó không? Có nhất thiết ông phải ở vào một hoàn cảnh nhất định
nào đó không?
--Đáp: Bạn không có chọn lựa
nào cả. Bất cứ cái gì xảy ra cũng đều là một biểu hiện của guru. Hoàn cảnh có
thể đau khổ hoặc hứng khởi, nhưng cả khổ và lạc đều là một trong sự rộng mở của
việc nhìn thấy hoàn cảnh là guru này.
******
Chương
4: Nhập Môn
Phần lớn những
người đến học với tôi đã làm như vậy vì họ nghe nói về cá nhân tôi, về tên tuổi
tôi như một người dạy thiền và một lạt-ma Tây tạng. Nhưng có mấy người tìm đến
nếu như chúng ta va phải nhau lần đầu tiên trên đường hay gặp nhau trong quán
ăn? Rất ít người có hứng thú học Phật pháp và thiền qua sự gặp gỡ như thế. Đúng
ra hình như người ta có hứng thú vì sự vụ tôi là người dạy thiền từ xứ Tây tạng
xa xôi, là hóa thân thứ 11 của Trungpa Tulku.
Vì thế người ta
đến và tìm kiếm một sự khởi đầu ở tôi, khởi đầu đi vào Phật pháp và Tăng-già,
cộng đồng những người tập thiền trên con đường tâm linh. Thế nhưng, sự khởi đầu
này thật sự có ý nghĩa gì? Có một truyền thống lâu dài và rộng lớn, trao truyền
trí huệ của giòng truyền thừa Phật giáo từ thế hệ những người hành thiền này
đến thế hệ kế tiếp, và sự trao truyền này nối kết với sự khởi đầu. Nhưng tất cả
nội dung của sự vụ này là gì?
Hình như vấn đề
thật sự đáng để hoài nghi về khía cạnh này. Người ta muốn nhận được sự kết nạp:
họ muốn gia nhập môt câu-lạc-bộ, nhận một danh xưng, đắc được trí huệ. Về mặt
riêng tư, tôi không muốn đùa cợt sự yếu đuối của họ, ước mong đạt được điều gì
đó phi thường của họ. Có người sẽ mua một bức tranh của Picasso chỉ vì tên tuổi
của họa sỹ đó. Có người sẽ trả hàng ngàn đô-la mà không nghĩ xem cái họ đang
mua có xứng đáng là nghệ thuật hay không. Có người đang mua các phẩm chất của
bức tranh, cái tên, nhận được tiếng tăm và tin đồn như sự bảo chứng công đức
nghệ thuật của họ. Chẳng có chút thông minh sâu sắc nào trong một hành động như
thế.
Hoặc có người có
lẽ gia nhập một câu-lạc-bộ, được nhận vào một tổ chức vì họ cảm thấy thèm khát,
vô tích sự. Hội đoàn thì mập mạp và giàu có, và họ muốn ai đó nuôi ăn họ. Họ
được cho ăn và béo phì ra như họ mong ước, nhưng rồi là gì nữa? Ai đang lừa ai?
Có phải người thầy hay guru đang tự lừa mình, đang nới rộng tự ngã của mình?
“Ta có một đám đông tín đồ đã được khai thị nhập đạo.” Hay ông ta đang lừa học
trò của mình, khiến họ tin rằng họ đã trở nên thông thái hơn, tâm linh hơn, chỉ
vì họ đã tự nguyện gia nhập tổ chức của ông và đã được dán nhãn tu sỹ, hành giả
du-già, bất cứ nhãn hiệu nào họ được trao? Có quá nhiều danh xưng để nhận.
Những danh xưng này, những phẩm chất này có mang lại cho chúng ta lợi ích thật
sự nào? Chúng có thật sự như thế không? Một buổi lễ kéo dài nửa tiếng đồng hồ
không mang chúng ta đến giai vị tiếp theo của giác ngộ; chúng ta hãy đối mặt
với sự thật. Bản thân tôi đã có sự hiến dâng và niềm tin to lớn vào giòng
truyền thừa Phật giáo và hùng lực của giáo pháp, nhưng không phải theo cách quá
đỗi ngu ngơ khù khờ.
Chúng ta phải tiếp
cận tâm linh với một loại thông minh sắc bén. Nếu chúng ta đi nghe một vị thầy
thuyết giảng, chúng ta đừng để mình bị cuốn trôi bởi tiếng tăm và khả năng thu
hút đám đông của ông, mà chúng ta phải tự thân kinh qua từng lời nói hoặc từng
khía cạnh của kỹ thuật thiền tập đang được ông giảng dạy. Chúng ta phải tạo một
quan hệ sáng tỏ và thông minh với giáo pháp và với người giảng. Một sự thông
minh như thế không dính dáng gì đến sự đa cảm hay thơ mộng hóa vị guru của mình
cả. Nó chẳng liên quan gì đến việc chấp nhận các phẩm chất một cách nhẹ dạ,
cũng không phải là việc gia nhập một câu-lạc-bộ lại có thể làm cho đời sống
chúng ta phong phú hơn.
Đó không phải là
việc tìm ra một guru thông thái để chúng ta có thể mua hay đánh cắp minh triết
từ đó. Một khởi đầu đích thực liên quan đến việc tiếp cận người bạn tâm linh
của chúng ta và chính bản thân chúng ta một cách trung thực và thẳng thắn. Vì
thế chúng ta phải nỗ lực như thế nào đó để phơi bày chính chúng ta cũng như
những sự tự đánh lừa mình của chúng ta. Chúng ta phải từ bỏ và phô bày cái phẩm
tính non dại và thô thiển của tự ngã chúng ta.
Từ tương đương
trong tiếng Phạn với nghĩa “nhập môn,” “sự khởi đầu,” “sự kết nạp” là abhisheka, có nghĩa là “tưới,” “rót,”
“xức dầu.” Và nếu có sự rót vào thì phải có một thùng chứa để đựng cái rót vào.
Nếu chúng ta thật sự chịu mở ra trước người bạn tâm linh một cách đúng đắn,
trọn vẹn, chịu trở thành một thùng chứa để sự truyền đạt của người đó có thể
rót vào, thì người đó cũng sẽ mở rộng ra, và sự khởi đầu sẽ xảy ra. Đây là ý
nghĩa của abhisheka hay “sự gặp gỡ giữa hai tâm” của thầy và trò.
Một sự mở ra như
thế không dính líu gì đến việc lấy lòng, cố gắng làm vui hay tạo ấn tượng đối
với người bạn tâm linh của mình. Nó tương tợ trường hợp một bác sỹ, vì biết
được có điều bất ổn với bạn nên mang bạn ra khỏi nhà, bằng cách cưỡng bách nếu
cần, và giải phẩu bạn mà không dùng đến một liều thuốc mê. Có lẽ bạn thấy cách
chữa trị này hơi tàn bạo và đau đớn, nhưng rồi bạn bắt đầu ý thức được một sự
nối kết thật sự – tiếp xúc với cuộc sống – đáng giá như thế nào.
Những đóng góp
tiền bạc cho một sự nghiệp tâm linh, những đóng góp công sức, sự liên kết với
một guru đặc biệt, không nhất thiết có nghĩa rằng bạn đã thật sự chấp nhận sự
khai mở. Tất cả những việc vừa nêu chỉ là những cách chứng thực rằng bạn đã gia
nhập vào phía “đúng”. Guru hình như là một con người thông thái. Ông biết ông
đang làm gì, và chúng ta muốn đứng về phía ông, phía an toàn, phía hoàn hảo, để
bảo đảm sức khỏe và sự thành công của chúng ta. Nhưng một khi chúng ta đã gắn
vào phía của người bạn tâm linh, phía của đời sống tâm linh lành mạnh, phía của
sự kiên định, phía của trí huệ, thì chúng ta ngạc nhiên nhận ra rằng chúng ta
chẳng thành công trong việc bảo đảm cho bản thân chúng ta chút nào cả. Bởi vì
chúng ta chỉ cam kết với vẻ bên ngoài của chúng ta, với mặt mũi chúng ta, với
bộ áo giáp của chúng ta. Chúng ta đã không dành trọn bản thân chúng ta.
Thế là bắt buộc
chúng ta phải mở rộng từ phía sau. Và thật khủng khiếp, chúng ta thấy rằng
không có nơi nào để bỏ chạy. Chúng ta bị phát hiện trong hành động ẩn núp đàng
sau cái vỏ bên ngoài của chúng ta, và chúng ta bị phơi bày mọi phía; lớp đệm và
tấm áo giáp chúng ta đã mang đều bị tước đi. Không còn nơi nào để chạy trốn.
Thật sửng sốt! Mọi thứ đều phơi bày, sự giả bộ và những suy nghĩ tự cao vụn vặt
của chúng ta. Vào lúc đó, có lẽ chúng ta ý thức rằng nỗ lực vụng về nhằm mang
một chiếc mặt nạ của chúng ta đã hoàn toàn vô dụng.
Chúng ta vẫn cố
gắng hợp lý hóa hoàn cảnh đau khổ này, cố tìm một cách nào đó bảo vệ chúng ta,
một cách giải thích hoàn cảnh nan giải của chúng ta để làm hài lòng tự ngã.
Chúng ta nhìn vào hoàn cảnh bằng cách này cách kia, và tâm trí chúng ta cực kỳ
bận rộn. Tự ngã thì rất lão luyện, có khả năng thống ngự theo cách của nó. Khi
chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang cố gắng thành tựu tiến trình đi tới nhằm làm
trống rỗng tự thân thì chúng ta lại thấy mình đang đi lui, cố gắng bảo vệ tự thân,
làm đầy tự thân. Và tình trạng rối loạn này cứ tiếp tục và căng thẳng thêm cho
đến khi cuối cùng chúng ta phát hiện chúng ta hoàn toàn đánh mất mình, đánh mất
nền tảng của chính mình; không có điểm khởi đầu, điểm giữa và điểm kết thúc vì
tâm trí chúng ta đã bị các cơ cấu phòng vệ của chính chúng ta chế ngự hoàn
toàn. Vì thế chọn lựa duy nhất dường như là buông bỏ và để mặc mọi chuyện. Các
ý tưởng và giải pháp khôn khéo của chúng ta chẳng giúp được gì, vì chúng ta bị
tràn ngập bởi quá nhiều ý tưởng. Chúng ta không biết chọn ý tưởng nào, không
biết ý tưởng nào sẽ cho chúng ta phương cách tốt nhất để cải thiện chính mình.
Tâm trí chúng ta chồng chất các đề nghị phi thường, thông minh, hợp luận lý,
khoa học, và giảo hoạt. Nhưng dù sao cũng quá nhiều và chúng ta không biết phải
chọn đề nghị nào.
Vì thế, cuối cùng
có lẽ chúng ta thật sự từ bỏ mọi thứ rắc rối này và chỉ chừa lại một khoảng
không nào đó, chỉ còn cách nhượng bộ. Đây là giây phút abhisheka – rưới và rót
– thật sự xảy ra. Vì chúng ta đã mở rộng và đang thật sự từ bỏ toàn bộ nỗ lực
muốn làm bất cứ điều gì, từ bỏ mọi sự rộn ràng, chen chúc. Cuối cùng chúng ta
bị buộc phải thật sự ngừng lại đúng lúc, một sự vụ hoàn toàn hiếm hoi đối với
chúng ta.
Chúng ta có quá
nhiều cơ cấu phòng vệ khác nhau được nặn ra từ lượng kiến thức chúng ta nhận
được, từ sách báo, từ kinh nghiệm bản thân, từ những giấc mơ. Nhưng cuối cùng
chúng ta tự hỏi tâm linh thật sự có nghĩa là gì. Có phải đó chỉ là việc cố gắng
trở thành tính cách tôn giáo, sùng tín và lương thiện? Hay đó là nỗ lực hiểu
biết nhiều hơn kẻ khác, nỗ lực học tập nhiều hơn về ý nghĩa cuộc đời? Nó thật
sự có nghĩa là gì? Các lý thuyết quen thuộc của nhà thờ gia đình chúng ta và
học thuyết của nó thì luôn ứng dụng được, nhưng dù sao đó không phải là những
câu trả lời chúng ta tìm kiếm. Chúng không hiệu quả, không áp dụng được. Vì
thế, chúng ta tránh xa các học thuyết và giáo điều của tôn giáo truyền thống.
Có thể chúng ta
quyết định rằng tâm linh là cái gì đó rất phấn chấn và đầy màu sắc. Đó là việc
tìm hiểu chính mình theo truyền thống của một bộ phái hay tôn giáo khác lạ nào
đó. Chúng ta bắt chước một loại tâm linh khác, cư xử theo phong cách nào đó, cố
gắng thay đổi giọng nói, thói quen ăn uống, và cung cách xử sự chung chung. Tuy
nhiên, sau một thời gian, những cố gắng tự giác như thế bắt đầu cảm thấy quá
vụng về và hiển nhiên, quá quen thuộc. Chúng ta hoạch định những cung cách xử
sự này trở thành bản chất quen thuộc thứ hai, nhưng vì lý do nào đó chúng vẫn
không hoàn toàn trở thành một phần của chúng ta. Chúng ta muốn những cung cách
cư xử “giác ngộ” này trở thành một phần tự nhiên của con người chúng ta, nhưng
chứng loạn thần kinh chức năng vẫn hiện diện trong đầu óc chúng ta. Chúng ta
bắt đầu tự hỏi: “Nếu ta đã hành động phù hợp với thánh điển của truyền thống
như thế như thế thì điều này có thể xảy ra như thế nào? Dĩ nhiên điều này là do
sự mơ hồ. Nhưng ta phải làm gì lần tới?” Sự mơ hồ vẫn tiếp tục cho dù chúng ta
có trung thành bám chặt kinh điển. Chứng loạn thần và sự bất mãn vẫn tiếp tục.
Vẫn không có gì thật sự rõ ràng; chúng ta đã không nối kết được với giáo pháp.
Vào điểm này chúng
ta thật sự cần đến sự “giao hội giữa hai tâm.” Không có abhisheka, những nỗ lực
tựu thành tâm linh của chúng ta sẽ dẫn đến không phải sự tuân phục đích thực mà
chỉ là một sự sưu tập tâm linh vĩ đại. Chúng ta đã thu thập những cung cách cư
xử khác nhau, những cung cách ngôn ngữ, trang phục, tư tưởng khác nhau, những
cung cách hành động khác nhau. Và tất cả chỉ là một bộ sưu tập mà chúng ta đang
nỗ lực định đặt lên chính chúng ta.
Abhisheka, sự khởi
đầu đích thực, sinh khởi từ sự tuân phục. Chúng ta khai mở tự thân trước hoàn
cảnh như nó đang là, và rồi chúng ta thật sự kết nối được với thầy của mình.
Trong bất cứ sự vụ nào, guru đã hiện hữu ở đó với chúng ta trong trạng thái rộng
mở; và nếu chúng ta mở rộng tự thân, sẵn sàng vứt bỏ những thứ thu thập được,
thì sự khởi đầu xảy ra. Không có nghi lễ “linh thiêng” nào cần đến. Thật vậy,
xem sự rưới-rắc, sự khởi đầu, sự nhập môn là linh thiêng có lẽ là sự quyến rũ
của cái mà các Phật tử thường nói đến như “những người con gái của Mara.” Mara
biểu trưng cho khuynh hướng loạn thần của tâm, trạng thái mất cân bằng của hiện
hữu, và ông ta sai sử con gái mình đến quyến rũ chúng ta. Khi những người con
gái của Mara dự phần vào sự khởi đầu, trong đó sự giao hội giữa hai tâm đang
thật sự xảy ra, thì chúng sẽ nói, “Quý vị cảm thấy tâm an? Đó là vì quý vị đang
nhận được huấn thị tâm linh, vì đây là một điều tâm linh đang xảy đến với quý
vị, nó thật linh thiêng.” Chúng có những giọng nói rất ngọt ngào và mang đến
một thông điệp đẹp đẽ đáng yêu, và chúng khuyến dụ chúng ta vào việc suy nghĩ
rằng sự truyền đạt này, sự “giao hội giữa hai tâm” này là một “giao dịch lớn.”
Lúc đó chúng ta bắt đầu sinh khởi các kiểu cách luân hồi của tâm. Nó tương tợ
với ý tưởng của Thiên chúa về hành động cắn trái táo; đó chính là sự quyến rũ.
Khi chúng ta xem abhsheka là linh thiêng, lúc đó sự chính xác và sự sắc bén lập
tức bắt đầu phai nhạt đi vì chúng ta đã bắt đầu đánh giá. Chúng ta nghe tiếng
nói của những người con gái của Mara chúc mừng chúng ta là chúng ta đã tìm cách
thực hiện được một sự việc thiêng liêng. Chúng đang nhảy múa quanh chúng ta và
đang chơi các điệu nhạc với lý do là vinh danh chúng ta vào dịp lễ lạc này.
Sự giao hội giữa
hai tâm thật sự xảy ra rất tự nhiên. Cả người dạy và người học gặp nhau trong
trạng thái khơi mở, trong đó cả hai đều ý thức được sự khơi mở là điều vô nghĩa
nhất trên toàn thế giới. Nó hoàn toàn vô nghĩa, thật sự tầm thường, tuyệt đối
không là gì cả. Khi chúng ta có thể nhìn thấy tự thân và thế giới theo cách
này, thì sự trao truyền đang trực tiếp xảy ra. Trong truyền thống Tây tạng, lối
nhìn sự vật như thế gọi là “bình thường tâm,” thamal-gyi-shépa. Đó là điều vô nghĩa nhất trong tất cả, sự mở rộng
hoàn toàn, sự vắng bóng bất kỳ sự thu thập hay đánh giá nào. Chúng ta có thể
nói rằng một sự vô nghĩa như thế thì rất ý nghĩa, một sự bình thường như thế
thì thật sự phi thường. Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ là một lời quyến rũ nữa của
những người con gái của Mara. Rốt cùng, chúng ta đành phải từ bỏ nỗ lực trở
thành một cái gì đó đặc biệt.
--Hỏi: Dường như
tôi không thể nào tránh được nỗ lực phòng vệ bản thân. Vậy tôi nên làm gì?
--Đáp: Bạn rất
muốn đoan chắc rằng ý tưởng cố gắng đừng
phòng vệ bản thân đã trở thành một trò chơi, một trò đùa lớn, và một cách phòng
vệ chính bạn. Bạn rất quan tâm đến việc canh chừng bạn và việc canh chừng bạn
đang canh chừng, và việc canh chừng bạn đang canh chừng bạn canh chừng. (You
are so concerned about watching yourself and watching yourself watching, and watching
yourself watching yourself watching.) Nó diễn ra, diễn ra, và diễn ra như thế.
Đó hoàn toàn là một hiện tượng thông thường.
Cái thật sự cần
đến là bạn hãy ngưng để ý đến mọi điều, buông thả hoàn toàn mọi sự quan tâm.
Những phức tạp chất chồng, tạo thành một cái máy dò lời nói dối cực kỳ tinh tế
và cũng tạo ra một cái máy dò đối với cái máy dò lời nói dối. Những cấu trúc
phức tạp như thế phải được loại bỏ. Bạn cố gắng phòng vệ tự thân và, sau khi đã
có được an toàn, thì bạn lại cố gắng bảo vệ sự an toàn đó. Những cứ điểm phòng
thủ như thế có thể trải dài cả một đế quốc vô tận. Có thể bạn chỉ làm chủ một
lâu đài bé xíu, nhưng phạm vi bảo vệ của bạn có thể trải dài bao trùm cả trái
đất. Nếu bạn thật sự muốn bảo vệ bạn triệt để, sẽ không có giới hạn nào dành
cho những nỗ lực của bạn.
Vì thế, cần buông
thả toàn bộ ý tưởng phòng vệ và hãy nhìn thấy tính chất châm biếm trong những
nỗ lực phòng vệ của bạn, tính chất châm biếm trong cấu trúc trùng điệp của việc
bảo vệ ngã. Bạn phải từ bỏ việc người thứ nhất canh chừng người thứ hai, người
thứ hai canh chừng người thứ ba. Để làm được điều này, người ta phải bỏ đi
người canh chừng thứ nhất, tức tự thân ý định phòng vệ.
--Hỏi: Tôi không
biết nên đưa ra quốc tịch gì, nhưng nếu giả như chúng tôi là người Ấn chẳng
hạn, thì có lẽ ông sẽ không nói với chúng tôi theo cách này, có phải không? Ý
tôi là chính vì chúng tôi là người Mỹ và đang
làm rất nhiều điều nên ông mới phải nói với chúng tôi cách này. Nếu giả như
chúng tôi không làm gì cả mà chỉ ngồi quanh thì ông sẽ không nói với chúng tôi
như thế.
--Đáp: Đây là điều
rất thú vị. Tôi nghĩ phong cách trình bày giáo pháp tùy thuộc vào sự liên quan
đến tốc độ của khuynh hướng vật chất ở khán thính giả đang ở mức độ nào. Nước
Mỹ đã đạt đến mực độ cực kỳ phức tạp của khuynh hướng duy vật mang tính vật lý.
Tuy nhiên, tiềm năng việc cuốn hút vào loại tốc độ này không chỉ giới hạn ở
người Mỹ; nó rất phổ quát, khắp nơi trên thế giới. Nếu Ấn-độ đạt đến các mức
phát triển kinh tế mà Mỹ đã đạt được, nơi con người đã thành tựu và đã vỡ mộng
trước khuynh hướng duy vật vật lý, thì họ cũng sẽ đến nghe một bài nói chuyện
như thế. Tuy nhiên, vào lúc này tôi không nghĩ sẽ có một lượng khán thính giả dành
cho loại bài nói chuyện này ở bất kỳ nơi nào ngoài phương Tây. Bởi vì con người
ở các nơi khác chưa mệt mỏi đủ với tốc độ của khuynh hướng duy vật vật lý.
Người ta vẫn đang để dành tiền mua xe đạp trên đường tiến đến xe hơi.
******
Chương
5: Tự Lừa Dối
Sự tự lừa dối là một vấn đề thường xuyên khi
chúng ta tiến bước trên con đường tâm linh. Tự ngã thì luôn luôn cố gắng thành
tựu tâm linh. Nó gần giống như muốn chứng kiến đám tang của chính bạn. Chẳng
hạn, lúc đầu có lẽ chúng ta tiếp cận người bạn tâm linh với hy vọng thâu lượm
được từ ông ấy một điều gì đó kỳ diệu. Sự tiếp cận này gọi là “săn tìm guru.”
Theo truyền thống, nó được ví với việc săn lùng loài hươu xạ hương. Người thợ
săn đuổi theo con hươu, giết nó, và lấy ra dầu xạ hương. Chúng ta có thể chọn
cách tiếp cận này đối với guru và tâm linh, nhưng đó sẽ là một sự lừa dối chính
bản thân mình. Nó không liên quan gì đến sự khai mở hay tuân phục đích thực.
Hoặc có thể chúng ta ngộ nhận rằng nhập môn
có nghĩa là sự cấy ghép, sự cấy ghép năng lực tâm linh của giáo pháp từ trái
tim của guru vào trái tim mình. Thái độ tinh thần này xem giáo pháp như cái gì
đó xa lạ đối với chúng ta. Nó tương tợ với ý tưởng cấy ghép một trái tim thật,
hay một cái đầu. Một yếu tố xa lạ được cấy ghép vào chúng ta từ bên ngoài cơ
thể chúng ta. Có thể chúng ta thường có khuynh hướng đánh giá tiềm năng cấy
ghép của chúng ta. Có lẽ cái đầu cũ kỹ của chúng ta không còn thích hợp nữa; có
lẽ nên ném nó vào đống rác. Chúng ta xứng đáng với một cái đầu tốt hơn, một cái
đầu mới, một cái đầu thông minh hơn với nhiều não hơn. Chúng ta quan tâm đến
những gì chúng ta sắp sửa có được từ cuộc giải phẫu sắp tới đến độ chúng ta
quên mất ông bác sỹ sắp tiến hành cuộc giải phẫu này. Chúng ta đã dừng lại để
tạo mối quan hệ với ông ấy chưa? Ông ta có giỏi không? Cái đầu chúng ta đã chọn
có thật sự thích hợp không? Ông bác sỹ không thể nói điều gì đó về việc chúng
ta chọn đầu sao? Có lẽ cơ thể chúng ta sẽ bác bỏ cái đầu đó. Chúng ta quan tâm
đến cái chúng ta nghĩ mình sẽ có được đến độ chúng ta bỏ qua những gì thật sự
đang xảy ra, quên luôn mối quan hệ với bác sỹ, cũng như căn bệnh của chúng ta,
và cái đầu mới này thật sự là gì.
Cách tiếp cận tiến trình nhập môn như thế thì
rất lãng mạn và chẳng có chút giá trị nào. Vì thế chúng ta cần có người nào đó
quan tâm đến chúng ta như chúng ta thật sự đang là, chúng ta cần người đóng vai
một tấm gương soi. Bất cứ khi nào chúng ta bị cuốn vào bất cứ loại lừa gạt nào
đối với bản thân thì toàn bộ tiến trình đó cần phải được tiết lộ, khai mở. Bất
kỳ cử chỉ nắm bắt nào cũng phải được phơi bày.
Việc nhập môn đích thực xảy ra căn cứ vào sự
“giao hội giữa hai tâm” Đó là vấn đề hãy là những gì bạn thực sự đang là, và
quan hệ với người bạn tâm linh như người đó đang là. Đây là hoàn cảnh đúng để
việc nhập môn có thể xảy ra; bởi vì ý tưởng thực hiện một cuộc giải phẫu và
thay đổi chính bạn từ căn bản thì hoàn toàn không thực tế. Không ai có thể thật
sự thay đổi được nhân cách bạn một cách tuyệt đối. Không ai có thể lật ngược
bạn hoàn toàn từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Chất liệu đang hiện hữu,
vốn đã có sẵn ở đó, phải được dùng đến. Bạn phải chấp nhận bạn như bạn đang là,
thay vì như bạn muốn là. Điều này có nghĩa hãy từ bỏ sự lừa dối chính mình và
những suy nghĩ viển vông. Toàn bộ con người bạn, các tính chất thuộc cá nhân
bạn phải được nhận ra và chấp nhận, và rồi bạn có thể tìm thấy nguồn cảm hứng
nào đó.
Ở thời điểm này, nếu bạn biểu lộ một ước muốn
cộng tác với y sỹ của bạn bằng cách tình nguyện vào bệnh viện, thì bác sỹ, về
phần ông ấy, sẽ dành sẵn một căn phòng và bất cứ thứ gì cần đến. Như vậy, cả
hai bên đều đang tạo ra một hoàn cảnh cho sự kết nối mở, vốn là ý nghĩa căn bản
của sự “giao hội giữa hai tâm”. Đây là phương cách đích thực nhằm kết hợp phước
thiện hay adhishthana, thể tính tâm
linh của guru, và thể tính tâm linh của chính bạn. Người thầy ngoại tại, guru,
khai mở tự thân, và vì bạn cũng khai mở chính bạn, vì bạn đang “tỉnh giác”, nên
có sự giao hội giữa hai yếu tố đồng nhất. Đây là ý nghĩa chân chính của
abhisheka, sự nhập môn, sự khởi đầu. Đó không phải là việc gia nhập một
câu-lạc-bộ, việc trở thành một con chiên, một con cừu được người chủ khắc tên ở
sau lưng mình.
Vì thế bây giờ bạn có thể khảo sát những gì
xảy đến sau abhisheka. Sau khi đã kinh nghiệm sự giao hội giữa hai tâm, chúng
ta đã thiết lập được sự kết nối thật sự với người bạn tâm linh của chúng ta.
Chúng ta không chỉ đã khai mở bản thân chúng ta, mà chúng ta còn kinh nghiệm
được một thoáng lóe sáng của tâm giác ngộ, một hiểu biết tức thời về một phần
giáo pháp. Người thầy tạo ra hoàn cảnh, chúng ta kinh nghiệm giây phút lóe sáng
này, và mọi chuyện dường như tốt đẹp.
Lúc đầu chúng ta rất phấn chấn; mọi cái đều
đẹp. Có thể chúng ta tìm thấy rằng trong nhiều ngày chúng ta cảm thấy rất “cao
cả” và phấn chấn. Dường như chúng ta đã đạt được một tầng của Phật quả. Không
một nỗi lo thế tục nào quấy nhiễu chúng ta, mọi chuyện đều trôi chảy nhẹ nhàng;
lúc nào chúng ta cũng có thể nhập thiền ngay lập tức. Đó là một kinh nghiệm kéo
dài của giây phút chúng ta mở rộng tự thân trước thầy mình. Điều này hoàn toàn
bình thường. Lúc này, có lẽ nhiều người cảm thấy không cần phải làm việc thêm
với người bạn tâm linh của họ nữa, và có lẽ họ sẽ ra đi. Tôi đã nghe nhiều về
chuyện này ở phương Đông: một số người học gặp thầy của họ, nhận được kinh
nghiệm liễu ngộ tức thời và rồi bỏ đi. Họ đã cố duy trì kinh nghiệm đó, nhưng
khi thời gian trôi qua, kinh nghiệm đó chỉ còn là một ký ức, chỉ còn là ngôn
ngữ và ý tưởng mà họ thường tự mình nhắc lại.
Sau một kinh nghiệm như thế, rất có thể phản
ứng đầu tiên của bạn là ghi vào nhật ký, giải thích mọi chuyện đã xảy ra. Bạn
sẽ cố gắng bám lấy kinh nghiệm qua các bài viết và tự truyện của bạn, bằng sự
thảo luận với người khác, hoặc bằng sự nói chuyện với những người đã chứng kiến
bạn có kinh nghiệm này.
Hoặc có người sẽ sang phương Đông để có loại
kinh nghiệm này, và rồi trở lại phương Tây. Bạn bè có lẽ sẽ thấy anh ta thay
đổi khủng khiếp. Có thể anh trông điềm đạm hơn, trầm tĩnh hơn, thông thái hơn.
Có thể có nhiều người xin anh lời khuyên và giúp đỡ về những vấn đề riêng tư,
có thể xin anh ý kiến về kinh nghiệm tâm linh của họ. Lúc đầu, cách anh giúp
người khác sẽ rất trung thực, liên kết những vấn đề của họ với kinh nghiệm của
riêng anh ở phương Đông, kể cho họ nghe những câu chuyện đẹp và có thật đã xảy
ra cho anh. Làm thế sẽ khiến anh thấy rất hứng khởi.
Thế nhưng, ở một giai đoạn nào đó trong loại
hoàn cảnh này, có cái gì đó thường đi lệch đường. Ký ức về giây phút liễu ngộ
lóe sáng được kinh nghiệm trước đó đã mất đi cường độ của nó. Nó không kéo dài
vì anh xem nó nằm ngoài bản thân mình. Anh cảm thấy anh đã có một kinh nghiệm
đột ngột về trạng thái tâm giác ngộ, và nó thuộc về phạm trù của sự thánh
thiện, của kinh nghiệm tâm linh. Anh đánh giá cao kinh nghiệm này và rồi truyền
đạt đến thế giới bình thường quen thuộc của quê nhà, đến kẻ thù và bạn bè, cha
mẹ và người thân, đến tất cả những người đó và những ràng buộc mà bây giờ anh
cảm thấy anh đã vượt qua và hàng phục chúng. Nhưng kinh nghiệm đó bây giờ đã
không còn lại với anh. Chỉ có ký ức. Tuy nhiên, sau khi đã công bố kinh nghiệm
và kiến thức của mình cho người khác, rõ ràng anh không thể quay lại để nói
rằng điều anh nói trước đây là bất thực. Anh không thể nào làm được điều đó. Nó
quá nhục nhã. Hơn nữa, anh vẫn còn tin vào kinh nghiệm này, vẫn tin rằng có gì
đó thâm sâu đã thật sự xảy ra. Thế nhưng, điều không may là kinh nghiệm đó
không còn có mặt vào chính giây phút này, vì anh đã sử dụng và đánh giá nó.
Nói chung, những gì xảy ra là, một khi chúng
ta đã thật sự mở ra, “lóe lên,” thì trong khoảnh khắc kế tiếp chúng ta ý thức
rằng chúng ta đã khai mở và ý tưởng đánh giá đột nhiên xuất hiện, “Chà, kỳ diệu
thật, ta phải nắm lấy cái đó, ta phải bắt giữ nó vì nó là một kinh nghiệm rất
quý báu và hiếm hoi.” Vì thế chúng ta cố gắng bám chặt lấy kinh nghiệm đó và
các vấn đề bắt đầu từ đó, từ việc xem kinh nghiệm khai mở đích thực là cái có
giá trị. Ngay khi chúng ta cố gắng nắm bắt kinh nghiệm đó, thì cả một loạt phản
ứng dây chuyền bắt đầu xen vào.
Nếu chúng ta xem một cái gì đó là giá trị và
phi thường thì nó sẽ hoàn toàn tách rời khỏi chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta
không xem đôi mắt, thân thể, đôi tay hay cái đầu của chúng ta là có giá trị, vì
chúng ta biết chúng là một phần của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu chúng ta mất chúng,
bất cứ bộ phận nào trong số đó, phản ứng tự nhiên của chúng ta sẽ là chúng ta
đã mất đi một cái có giá trị như thế – “Tôi đã mất đầu, tôi đã mất tay, không
thể nào thay thế được!” Lúc đó chúng ta biết rằng đó là một vật có giá trị. Khi
cái gì đó bị lấy đi khỏi chúng ta, chúng ta mới có cơ hội ý thức rằng cái đó có
giá trị. Nhưng khi lúc nào chúng ta cũng có nó cùng với chúng ta, khi nó là một
phần của toàn bộ cấu trúc con người của chúng ta, thì chúng ta không thể đánh
giá nó một cách đặc biệt; nó đã có ở đó. Sự đánh giá xuất phát từ nỗi lo sợ bị
tách ra, đó là cái khiến chúng ta tách rời ra. Chúng ta xem bất cứ cảm hứng đột
xuất nào cũng quan trọng phi thường vì chúng ta sợ mất nó. Chính điểm đó, chính
giây phút đó là lúc sự tự dối mình xuất hiện. Nói cách khác, chúng ta đã mất
niềm tin vào kinh nghiệm khai mở và sự liện hệ giữa nó với chúng ta.
Bằng cách nào đó chúng ta đã đánh mất tính
đồng nhất của sự khai mở và những gì chúng ta đang là. Sự khai mở trở thành cái
tách biệt, và rồi chúng ta bắt đầu chơi các trò chơi. Rõ ràng chúng ta không
thể nói chúng ta đã đánh mất sự khai mở. “Tôi đã từng có nó, nhưng tôi đã đánh
mất.” Chúng ta không thể nói như thế, vì điều đó sẽ hủy hoại thân phận là một
con người thành tựu của chúng ta. Vì thế vai trò của sự tự dối mình là kể lại
các câu chuyện. Chúng ta thích kể chuyện hơn là kinh nghiệm thật sự sự khai mở,
bởi vì chuyện kể thì rất sống động và thích thú. “Khi tôi ở với thầy tôi, những
chuyện như thế như thế đã xảy ra; thầy nói những điều như thế như thế và khai
mở tôi theo cách như thế như thế, vân vân và vân vân.” Vì thế, sự tự dối mình,
trong trường hợp này có nghĩa là tái tạo mãi một kinh nghiệm quá khứ, thay vì
thật sự có được kinh nghiệm đó ở giây phút hiện tại. Để có được kinh nghiệm đó
vào bây giờ, ta phải từ bỏ việc đánh giá sự lóe sáng đó kỳ diệu như thế nào, vì
chính ký ức về nó đã giữ nó xa cách ta. Nếu ta có kinh nghiệm này một cách liên
tục, nó sẽ trở nên dường như rất tầm thường; và chúng ta không thể chấp nhận
chính sự tầm thường này. “Giá như ta có thể có được kinh nghiệm khai mở tuyệt
vời đó một lần nữa!” Vì thế chúng ta cứ bận tâm chuyện không có kinh nghiệm đó,
cứ mãi nhớ nó. Đây là trò chơi của sự tự dối mình.
Sự tự dối mình cần đến ý tưởng đánh giá và
một ký ức thật dài. Nghĩ về quá khứ, chúng ta cảm thấy nuối tiếc, cảm thấy thú
vị từ những kỷ niệm của chúng ta; nhưng chúng ta không biết mình đang ở đâu vào
chính giây phút này. Chúng ta nhớ đến “những lúc vui thú,” “những năm tháng
hoàng kim.” Chúng ta không để cho sự buồn chán khởi lên, chúng ta không muốn
chấp nhận sự hoài nghi là chúng ta đã không còn liên hệ với cái gì đó. Bất cứ
khi nào sự buồn phiền có thể sinh khởi và cảm giác mất mát sắp sửa xảy ra, thì
bản chất phòng thủ của tự ngã lập tức mang đến cho tâm trí chúng ta những ký ức
và lời lẽ chúng ta đã nghe trong quá khứ để xoa dịu chúng ta. Như thế tự ngã
đang liên tục tìm kiếm nguồn cảm hứng không có gốc rễ ở hiện tại; đó là một sự
chạy ngược trở lại liên tục. Đây là hành động phức tạp hơn của sự tự dối mình:
người ta không để cho bất cứ sự chán nản nào khởi lên. “Vì ta đã nhận được phúc
lạc lớn như thế, và cũng vì ta đã may mắn có được những kinh nghiệm tâm linh
tuyệt vời này, làm sao có thể nói là ta buồn chán? Không thể nào, không có chỗ
cho sự buồn chán.”
Có câu chuyện kể về Marpa, vị thầy Tây Tạng
vĩ đại. Lần đầu tiên khi Marpa gặp thầy của ông là Naropa, thì Naropa đang lập
một nơi thờ phượng mà ông cho biết là hiện thân trí huệ của một heruka đặc biệt. Cả Naropa và nơi thờ
phượng này đều chứa năng lượng và sức mạnh tâm linh khủng khiếp; và Naropa hỏi
Marpa nên quỳ lạy nguồn năng lượng và sức mạnh nào để có thể đạt được sự đốn
ngộ. Marpa, vốn là một học giả, xét thấy rằng vị guru hiện hữu bằng xương thịt,
trong một thân người bình thường; trong lúc cái bàn thờ do ông lập ra là thân
thanh tịnh của trí huệ, không dính gì đến sự bất toàn của con người. Vì thế
Marpa đã quỳ lạy trước bàn thờ. Lúc đó Naropa nói, “Ta sợ cảm hứng của ngươi
sắp phai tàn rồi. Ngươi đã có một lựa chọn sai lầm. Bàn thờ này là do ta lập
ra, và nếu không có ta thì nó sẽ không thể có ở đây. Vấn đề thân người đối lại
với thân trí huệ chẳng có ý nghĩa gì. Sự chưng bày lớn lao của mandala chỉ là
một sáng tạo của ta.”
Câu chuyện này minh thị nguyên lý những giấc
mơ, hy vọng, mong ước đều là sự tự đối mình. Chừng nào bạn còn xem bạn hay bất
cứ phần nào trong kinh nghiệm của bạn như là “giấc mơ đã trở thành hiện thực,”
thì bạn còn bị cuốn vào sự tự dối mình. Sự tự dối mình dường như luôn dựa vào
thế giới của mơ mộng, vì bạn muốn thấy những gì bạn chưa nhìn thấy hơn là những
gì bạn đang nhìn thấy. Bạn sẽ không chấp nhận rằng bất cứ cái gì bây giờ đang ở
đây chính là những gì đang là; và bạn
cũng không muốn tiếp tục với cái hoàn cảnh như nó đang là. Vì thế, sự tự lừa
dối luôn luôn tự biểu lộ dưới dạng những cố gắng tạo dựng hoặc tái tạo một thế
giới mơ mộng, dưới dạng nỗi nhớ nhung những kinh nghiệm mơ mộng. Và cái đối
nghịch với sự tự dối mình thì vẫn đang vận hành cùng với thực tế của cuộc sống.
Nếu ta kiếm tìm bất kỳ loại hạnh phúc hay
niềm vui nào, bất kỳ sự hiện thực hóa những tưởng tượng và mơ mộng nào của ta,
thì cùng lúc ta sẽ phải chịu sự thất bại và phiền não giống như thế. Đây là
toàn bộ vấn đề: nỗi sợ hãi bị tách rời, niềm hy vọng đạt được sự hợp nhất,
những điều này không chỉ là những biểu hiện hay hành động của tự ngã hay sự tự
dối mình; làm như tự ngã là một cái gì đó thực hữu, có khả năng phô diễn những
hành động nào đó. Tự ngã chính là các
hành động, là những sự kiện tinh thần. Tự ngã là nỗi sợ đánh mất sự khai mở,
nỗi sợ đánh mất trạng thái vô ngã. Đây là ý nghĩa của sự tự dối mình; trong
trường hợp này – tự ngã kêu gào đã đánh mất trạng thái vô ngã, đã đánh mất giấc
mơ thành tựu của nó. Sợ hãi, hy vọng, được, mất – đây là hành động đang diễn ra
của giấc mơ của tự ngã, của cấu trúc tự duy trì, tự kéo dài, vốn là tự thân của
sự tự dối mình.
Vì thế kinh nghiệm đích thực, vốn vượt lên
trên thế giới của mơ mộng, chính là vẻ đẹp, là màu sắc và niềm phấn khích của
một kinh nghiệm đích thực về cái bây giờ
trong cuộc sống hàng ngày. Khi chúng ta đối mặt với mọi thứ như chúng đang là,
chúng ta vứt bỏ hy vọng vào cái gì đó tốt hơn. Sẽ không có ma thuật nào cả, vì
chúng ta không thể tự bảo mình hãy thoát ra khỏi sự phiền muộn. Phiền não và vô
minh, các cảm xúc, bất cứ cái gì chúng ta kinh nghiệm được, tất cả đều có thực
và chứa đựng sự thật vĩ đại. Nếu chúng ta thật sự muốn học và nhìn thấy kinh
nghiệm về sự thật, chúng phải ở nơi chúng ta đang là. Toàn bộ vấn đề chỉ là
việc hãy là một hạt cát.
--Hỏi: Xin ông nói thêm về lực vận hành của
sự tuyệt vọng này? Tôi có thể hiểu tại sao tuyệt vọng nảy sinh, thế nhưng tại
sao phúc lạc lại nảy sinh?
--Đáp: Lúc đầu ta có thể thúc đẩy tự thân
kinh nghiệm được niềm phúc lạc. Đó là một loại tự thôi miên, trong đó chúng ta
từ chối không nhìn vào bối cảnh của những gì chúng ta đang là. Chúng ta chỉ tập
trung tức thời vào kinh nghiệm phúc lạc. Chúng ta lờ đi toàn bộ nền tảng căn
bản, nơi chúng ta thật sự đang là, có thể nói như thế; và chúng ta tiến dần đến
kinh nghiệm về một niềm hoan lạc rộng lớn. Điều phiền toái là, loại kinh nghiệm
này hoàn toàn dựa vào việc quán sát tự thân. Đó là một cách tiếp cận hoàn toàn
có tính cách nhị nguyên. Chúng ta muốn kinh nghiệm được điều gì đó, và với nỗ
lực lớn chúng ta đã thật sự đạt được. Tuy nhiên, một khi chúng ta bước xuống từ
thành tựu “cao cả’ đó, chúng ta lại ý thức rằng chúng ta vẫn đang ở đây, giống
như một tảng đá đen nằm giữa đại dương dậy sóng, rồi nỗi phiền muộn lại chen
vào. Chúng ta muốn uống cho say, chẳng biết trời trăng gì, muốn đắm mình vào
trong toàn thể vũ trụ, nhưng bằng cách nào đi nữa điều đó vẫn không xảy ra.
Chúng ta vẫn ở đây; đó luôn là điều trước tiên mang chúng ta xuống, hạ thấp
chúng ta. Sau đó tất cả những trò chơi khác của sự tự dối mình, của cố gắng
nuôi béo mình thêm nữa, bắt đầu; vì ta đang cố bảo vệ mình trọn vẹn. Đó là
nguyên lý “người canh chừng”.
--Hỏi: Ông có nói về những người kinh nghiệm
được điều gì đó và rồi nắm bắt nó về mặt tri thức, dán nhãn cho nó rồi nói,
“Cái đó thật kỳ diệu.” Đây dường như là một phản ứng gần như tự động. Ông làm
ơn trình bày các phương thức để người ta có thể bắt đầu tránh không làm như
thế? Tôi thấy hình như ông càng cố chặn đứng việc đánh giá thì ông càng đánh
giá nhiều hơn.
--Đáp: Vâng, một khi bạn ý thức rằng bạn thật
sự đang làm như thế và chẳng rút ra được gì từ đó, thì tôi nghĩ bạn bắt đầu tìm
thấy lối ra của bạn. Người ta bắt đầu thấy rằng toàn bộ tiến trình là một phần
của một trò chơi lớn không có gì lợi lạc thật sự; vì bạn vẫn đang tiếp tục tạo
dựng hơn là đạt đến một sự hiểu biết về bất cứ điều gì. Không dính líu gì đến
huyền thuật hay trò man trá nào cả. Điều duy nhất phải làm là hãy chịu đau để
lột chiếc mặt nạ đi.
Có lẽ bạn sẽ phải tiếp tục xây thêm dựng thêm
cho đến khi ý thức rằng thật vô ích khi cố thành tựu tâm linh. Có thể toàn bộ
tâm trí bạn đã bị sự chiến đấu của bạn tràn ngập hoàn toàn. Thật vậy, có lẽ bạn
không biết là mình đang đến hay đang đi, tới giai đoạn bạn trở nên hoàn toàn
kiệt sức. Rồi có lẽ bạn học được một bài học rất hữu ích: vứt bỏ mọi thứ, hãy
không là gì cả. Thậm chí bạn còn có thể kinh nghiệm được niềm mong ước đừng trở
thành cái gì cả. Hình như có hai giải pháp: chỉ cần lột bỏ chiếc mặt nạ, hoặc
cứ xây dựng, cứ chiến đấu cho đến tận cao điểm rồi buông bỏ tất cả.
--Hỏi: Điều gì xảy ra khi người ta nói, “Chà,
ta đã làm được điều đó.” Điều đó không làm hỏng toàn bộ chuyến đi có phải
không?”
--Đáp: Không nhất thiết như thế. Nhưng rồi,
điều gì xảy ra tiếp. Có phải bạn muốn lập lại mãi kinh nghiệm của bạn, hơn là
hành động với hoàn cảnh hiện tại của những gì đang là? Người ta có thể kinh
nghiệm được niềm hoan lạc lớn lao trong lần lóe sáng đầu tiên của sự rộng mở,
một điều rất đẹp. Nhưng những gì đến sau đó mới quan trọng: người ta đang nỗ
lực nắm bắt và tái tạo kinh nghiệm đó; hoặc người ta đang để trôi qua, để cho
kinh nghiệm đó cũng chỉ là một kinh nghiệm, không một cố gắng tái tạo lần lóe
sáng đầu tiên.
--Hỏi: Ông là người có tham vọng, lúc nào
cũng lo chuyện xây dựng, và càng nghĩ về chuyện đó thì nó càng tồi tệ hơn. Vì
thế ông cố tránh xa toàn bộ sự việc, cố không nghĩ về nó, cố đánh mất ông trong
mọi hình thức chạy trốn. Điều này có ý nghĩa gì và làm thế nào ta có thể vượt
qua sự thật là, càng nghĩ về giác ngộ và cố chứng đắc nó thì mọi thứ càng trở
nên tồi tệ hơn và càng tích lũy nhiều khái niệm hơn? Ông sẽ làm gì?
--Đáp: Điều đó không có gì khó hiểu cả. Bạn
chỉ việc buông bỏ hoàn toàn sự tìm kiếm bất cứ điều gì, buông bỏ nỗ lực khám
phá bất cứ điều gì, buông bỏ nỗ lực chứng thực bản thân mình.
--Hỏi: Nhưng đôi khi người ta có thể có một
cảm giác sống động của việc chạy trốn; và điều này không giống với việc đừng
làm gì cả.
--Đáp: Một khi bạn cố chạy trốn, bạn thấy
rằng bạn không chỉ bị săn đuổi từ phía sau, mà còn có những người đang tiến về
bạn từ phía trước. Cuối cùng chẳng còn chỗ để chạy. Bạn hoàn toàn bị sa bẫy.
Rồi điều duy nhất làm được là, chỉ việc đầu hàng.
--Hỏi: Điều đó có nghĩa gì?
--Đáp: Bạn phải tự kinh nghiệm lấy. Nó có
nghĩa là bạn chấm dứt ngay cố gắng đi bất cứ đâu, về việc chạy đi cũng như chạy
lại, vì cả hai chẳng khác nhau.
--Hỏi: Có phải sự ghi nhớ tự thân hay quán
sát tự thân thì không thích hợp với việc buông bỏ và sự hiện hữu ở đây không?
--Đáp: Sự ghi nhớ tự thân hoàn toàn là một kỹ
thuật nguy hiểm. Nó có thể bị cuốn vào việc canh chừng tự thân bạn và các hành
động của bạn, như một con mèo đói đang rình chuột; hoặc nó có thể là một cử chỉ
thông minh nhằm có mặt nơi bạn đang là. Toàn bộ vấn đề là, nếu bạn có bất kỳ ý
tưởng nào về sự quan hệ – tôi đang kinh nghiệm điều này, tôi đang thực hiện
điều này – lúc đó cái “tôi” và cái “này” là những tính cách rất mạnh, cả hai
ngang nhau. Bằng cách nào đó sẽ có một sự xung đột giữa cái “tôi” và cái “này”.
Nó gần giống như nói rằng cái “này” là mẹ và cái “tôi” là cha. Với hai thái cực
quyện vào nhau như thế, bạn chắc chắn sẽ sinh ra cái gì đó. Vì thế tất cả ý
nghĩa là đừng để cái “này” có ở đó, và rồi cái “tôi” sẽ không có ở đó. Hoặc là,
cái “tôi” không có ở đó, vì thế cái “này” không có ở đó. Đây không phải là việc
tự kể cho mình nghe về nó, mà là cảm nhận nó, một kinh nghiệm thật sự. Bạn phải
đuổi tên canh chừng, đuổi tên quan sát cả hai thái cực đi. Một khi tên canh
chừng đã bị đuổi đi thì toàn bộ cấu trúc sẽ rã ra. Tình trạng lưỡng phân chỉ
tồn tại chừng nào vẫn còn một người quan sát giữ cho toàn bộ bức tranh kết lại
với nhau. Bạn phải đuổi đi kẻ quan sát và bộ máy quan liêu cực kỳ phức tạp do
hắn tạo ra, để có thể đoan chắc rằng bộ chỉ huy trung tâm chẳng còn nhớ tưởng
đến bất cứ điều gì. Một khi chúng ta đã lấy đi tên quan sát thì sẽ có một
khoảng không gian rộng lớn; bởi vì hắn và bọn quan lại đã chiếm quá nhiều chỗ.
Nếu chúng ta hủy diệt bộ lọc của cái “tôi” và cái “khác,” lúc đó không gian sẽ trở
nên sắc nét, chính xác và thông minh. Không gian chứa đựng độ chính xác mênh
mông về khả năng hoạt động cùng với hoàn cảnh ở trong đó. Người ta thật sự
chẳng cần đến một kẻ “canh chừng” hay “quan sát” nào cả.
--Hỏi: Có phải kẻ canh chừng hiện hữu vì ông
muốn sống dường như ở một cấp độ cao hơn, trong khi nếu ông chỉ buông thả thôi
thì có lẽ ông cũng sẽ ở đó?
--Đáp: Vâng, đúng như thế. Khi kẻ canh chừng
biến mất, khái niệm về các cấp độ cao hơn và thấp hơn không áp dụng được nữa.
Vì thế không còn khuynh hướng chiến đấu, cố đạt đến chỗ cao hơn. Lúc đó bạn ở
đúng nơi bạn đang là.
--Hỏi: Ông có thể bức bách tên canh chừng bỏ
đi không? Chẳng phải đó cũng là trò chơi đánh giá sao?
--Đáp: Bạn không phải xem tên canh chừng như
một kẻ vô lại. Một khi bạn bắt đầu hiểu rằng mục đích của thiền không phải là
trở nên cao hơn mà là hiện hữu ở đây, thì tên canh chừng không còn đủ sức để
thể hiện chức năng đó, và nó tự động rã ra ngay lập tức. Tính chất căn bản của
kẻ canh chừng là cố trở nên cực kỳ hiệu quả và năng động. Tuy sự tỉnh giác toàn
triệt là cái bạn đã có, vì thế những nỗ lực tỉnh giác đầy tham vọng hay gọi là
“hiệu quả” như thế chính là sự tự dối mình. Khi kẻ canh chừng bắt đầu biết rằng
nó không còn hợp thời nữa, nó sẽ biến mất.
--Hỏi: Có thể có tỉnh giác mà không có một kẻ
canh chừng không?
--Đáp: Có, vì kẻ canh chừng chỉ là một hoang
tưởng. Bạn có thể có sự khai mở hoàn toàn, một hoàn cảnh bao quát, mà không cần
phải phân biệt hai phần, cái “tôi” và cái “khác”.
--Hỏi: Sự tỉnh giác đó có dính líu đến các
cảm giác hoan lạc chứ?
--Đáp: Tôi không nghĩ thế, vì hoan lạc là một
kinh nghiệm rất cá thể. Bạn tách rời ra và bạn đang kinh nghiệm niềm hoan lạc
của bạn. Khi kẻ canh chừng đã đi rồi, thì không có sự đánh giá kinh nghiệm đó
là lạc hay khổ. Khi bạn có sự tỉnh giác bao trùm mà không có sự đánh giá của kẻ
canh chừng, thì hoan lạc trở nên lỗi thời, do chính sự kiện là chẳng còn ai
kinh nghiệm nỗi hoan lạc đó.
******
Chương 6: Con Đường Khó
Bởi vì không có ai sẽ cứu chúng ta, ngay
cả việc dùng thần thông để giúp chúng ta giác ngộ cũng không có ai, cho nên con
đường chúng ta đang nói đến được gọi là “con đường khó”. Con đường này không
chiều ý chúng ta khi chúng ta hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên nhẹ nhàng, bình
an, vui vẻ, đầy từ tâm nếu gắn bó với giáo pháp. Đó là con đường khó, một sự
gặp gỡ đơn thuần giữa hai tâm: nếu tâm bạn rộng mở, nếu bạn sẵn sàng để gặp thì
tâm của người thầy cũng sẽ rộng mở. Đó không phải là vấn đề thần thông, huyền
thuật; điều kiện của sự khai mở là một sáng tạo hỗ tương.
Nói chung, khi chúng ta nói về tự do hay
giải thoát hay liễu ngộ, chúng ta nghĩ để đạt được những điều này, chúng ta
không cần phải làm gì cả; một người khác sẽ lo cho chúng ta. “Bạn yên tâm, đừng
lo, đừng khóc, bạn sắp ổn rồi. Tôi sẽ lo cho bạn.” Chúng ta thường nghĩ tất cả
mình phải làm là cam kết với một tổ chức, trả phí kết nạp, ghi danh và rồi làm
theo các chỉ dẫn được cho. “Tôi tin chắc rằng tổ chức của bạn có giá trị, nó
trả lời mọi câu hỏi của tôi. Bạn có thể lập chương trình cho tôi theo bất cứ
cách nào. Nếu bạn muốn để tôi vào những hoàn cảnh khó, xin cứ làm thế. Tôi giao
phó mọi cái cho bạn.” Thái độ này tạo ra sự thoải mái chẳng phải làm gì cả; chỉ
việc theo lệnh. Mọi việc phó mặc cho người khác, giáo huấn bạn, giải trừ những
khiếm khuyết của bạn. Tuy nhiên, chúng ta ngạc nhiên là mọi việc không diễn ra
theo lối đó. Ý tưởng chúng ta không phải làm gì cả là một suy nghĩ cực kỳ đầy
mong ước.
Người ta phải nỗ lực khủng khiếp mới
vượt qua được những khó khăn trên đường đi và thực sự thể nhập vào những hoàn
cảnh sống một cách triệt để và đúng đắn. Vì thế, toàn bộ ý nghĩa của con đường
khó dường như là người học phải thực hiện một nỗ lực cá nhân nào đó để thừa
nhận chính mình, để đi hết tiến trình lột bỏ tấm mặt nạ của chính mình. Người
ta phải chấp nhận đứng một mình, một điều thật khó khăn.
Điều này không có nghĩa trọng tâm của
con đường khó là chúng ta phải trở nên anh hùng. Thái độ “anh hùng” căn cứ vào
giả tưởng rằng chúng ta tồi tệ, không trong sạch, không xứng đáng, không sẵn
sàng cho sự hiểu biết tâm linh. Chúng ta phải cải tạo tự thân, phải khác với
những gì chúng ta đang là. Chẳng hạn, nếu chúng ta là những người Mỹ thuộc giới
trung lưu, chúng ta phải bỏ việc hay ra khỏi đại học, dọn nhà khỏi khu ngoại ô,
để tóc dài, và có lẽ, thử dùng ma túy nữa. Nếu chúng ta là dân hippies, chúng
ta phải cai ma túy, cắt tóc ngắn, vứt những chiếc quần jeans rách rưới. Chúng
ta nghĩ mình đặc biệt, mình anh hùng, mình đang quay mặt đi trước sự cám dỗ.
Chúng ta trở thành người ăn chay trường và chúng ta trở thành cái này cái kia.
Có quá nhiều cái để trở thành. Chúng ta nghĩ con đường của chúng ta là con
đường tâm linh, vì nó đang đi ngược lại dòng chảy những gì chúng ta đã từng là.
Thế nhưng, đó chỉ là một lối anh hùng giả hiệu, và kẻ duy nhất mang tính anh
hùng theo lối này là tự ngã.
Chúng ta có thể đưa loại anh hùng giả
hiệu này lên đến những cực điểm tột cùng, đưa bản thân vào những hoàn cảnh cực
kỳ khắc khổ. Nếu như giáo lý mà chúng ta tình nguyện đi theo đề nghị nên đứng
chúc ngược đầu trong hai mươi bốn giờ, chúng ta sẽ làm ngay. Chúng ta thanh
tịnh hóa thân tâm, thực hành khổ hạnh, và chúng ta cảm thấy cực kỳ thanh tịnh,
chuyển hóa, đạo đức. Có lẽ dường như điều này chẳng có gì bất ổn vào lúc đó.
Có thể chúng ta cố gắng bắt chước những
con đường tâm linh nào đó, như con đường Ấn giáo, hoặc con đường Phật giáo
Thiền tông Nhật Bản. Có thể chúng ta vứt bỏ các bộ trang phục, cổ áo, cà-vạt,
thắt lưng, quần tây và giày trong nỗ lực làm theo gương họ. Hoặc có thể chúng
ta quyết định đi Bắc Ấn để gia nhập cộng đồng người Tây Tạng. Có thể chúng ta
sẽ mặc áo quần kiểu Tây Tạng và sống theo phong tục tập quán Tây Tạng. Đây
dường như sẽ là “con đường khó”, vì sẽ luôn luôn có các chướng ngại và sự lôi
cuốn kéo chúng ta rời xa mục đích của mình.
Ngồi trong một thảo am Ấn giáo, chúng ta
đã không ăn sô-cô-la trong sáu hoặc bảy tuần, vì thế chúng ta mơ về sô-cô-la,
hay các món ưa thích khác. Có lẽ chúng ta rất nhớ nhà vào các ngày Giáng sinh
hay Năm mới. Tuy nhiên, chúng ta nghĩ chúng ta đã tìm thấy con đường tu tập.
Chúng ta đã chiến đấu vượt qua những khó khăn của con đường này và đã trở thành
người hoàn toàn có năng lực, trở thành bậc thầy của một loại tu tập nào đó.
Chúng ta mong đợi thần thông và trí huệ của việc rèn luyện và tu tập của chúng
ta sẽ đưa chúng ta vào trạng thái tâm chân chánh. Có khi chúng ta nghĩ chúng ta
đã đạt được mục đích. Có lẽ chúng ta đã hoàn toàn “cao cả” hay thể nhập trong
khoảng thời gian sáu hoặc bảy tháng. Sau đó trạng thái an lạc này biến mất. Và
như thế là nó ra đi, ra đi. Chúng ta sẽ giải quyết tình cảnh này bằng cách nào?
Có thể chúng ta sẽ duy trì được sự “cao cả” hay an lạc này trong một thời gian
dài, nhưng rồi chúng ta phải trở lại hoặc tụt xuống trạng thái bình thường.
Không phải tôi muốn nói rằng các truyền
thống tu tập hay xa lạ không áp dụng được cho con đường tâm linh. Đúng ra, ý
tôi là chúng ta thường nghĩ rằng phải có một loại thuốc hay thần dược nào đó
giúp chúng ta đạt đến trạng thái tâm chân chánh. Điều này dường như đang dẫn
đến vấn đề thụt lùi. Chúng ta hy vọng dựa vào khả năng điều động vật chất, thế
giới vật lý, chúng ta có thể tựu thành trí huệ và hiểu biết. Thậm chí chúng ta
có thể còn mong đợi các nhà khoa học chuyên môn làm điều đó cho chúng ta. Có
thể họ đưa chúng ta vào bệnh viện, cho chúng ta uống thuốc và đưa chúng ta vào
một trạng thái ý thức cao. Nhưng tôi nghĩ, tiếc thay, điều này không thể xảy
ra; chúng ta không thể trốn thoát những gì chúng ta đang là, chúng ta cưu mang
nó mọi lúc mọi nơi.
Vì thế vấn đề của chúng ta bây giờ là
phải cần đến một món quà hay một sự hy sinh thật sự nào đó nếu chúng ta muốn
khai mở một cách toàn triệt. Món quà này có thể mang bất cứ hình thức nào.
Nhưng để cho nó có ý nghĩa, nó phải kéo theo sự từ bỏ mọi hy vọng nhận được bất
cứ sự đền đáp nào. Không quan trọng việc chúng ta có bao nhiêu nhãn hiệu, bao
nhiêu bộ quần áo ngoại nhập chúng ta đã mặc, hoặc bao nhiêu triết lý, sự cam
kết và các lễ ban phước chúng ta đã tham dự. Chúng ta phải buông bỏ tham vọng
nhận được sự đền đáp nào đó đối với món quà của chúng ta. Đó thật sự là một con
đường khó.
Chúng ta có thể có một thời gian tuyệt
vời đi khắp nước Nhật. Có thể chúng ta đã thưởng ngoạn nền văn hóa Nhật, những
thiền viện đẹp đẽ, những tác phẩm nghệ thuật sáng giá. Và chúng ta không chỉ
nhận thấy những kinh nghiệm thật đẹp mà chúng còn nói lên điều gì đó với chúng
ta. Nền văn hóa này là sự sáng tạo một nếp sống trọn vẹn hoàn toàn khác với lối
sống của thế giới Tây phương; và những sáng tạo này đã bày tỏ với chúng ta. Thế
nhưng nét tinh tế của nền văn hóa và các ảnh tượng này, vẻ lộng lẫy của các
hình thái ngoại diện này đã thật sự lay động chúng ta, tương quan với chúng ta
đến mức độ nào? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ muốn nhấm nháp những kỷ niệm
đẹp. Chúng ta không muốn cật vấn quá kỹ những kinh nghiệm của mình. Đó là một
khu vực nhạy cảm.
Hoặc có lẽ một guru nào đó đã thâu nhận
chúng ta trong một buổi lễ rất cảm động, cực kỳ ý nghĩa. Buổi lễ đó có thật,
thẳng thắn và đẹp, nhưng chúng ta sẵn sàng thắc mắc bao nhiêu phần của kinh nghiệm
đó? Nó riêng tư, và quá nhạy cảm không thể nào cật vấn được. Chúng ta thích
tích trữ và gìn giữ hương vị và vẻ đẹp của kinh nghiệm, để khi chúng ta gặp
những lúc tồi tệ, khi chúng ta phiền muộn và xuống tinh thần, chúng ta có thể
nhớ lại kỷ niệm đó để tự an ủi mình, để nói với chúng ta rằng chúng ta đã thật
sự làm được điều gì đó đáng giá, rằng, vâng, chúng ta vẫn đang trên đường. Điều
này dường như chẳng phải là con đường khó tí nào.
Đàng khác, dường như chúng ta đang tích
góp hơn là cho đi. Nếu chúng ta nhìn lại lần đi mua sắm tâm linh của chúng ta,
chúng ta có còn nhớ có lần chúng ta đã cho đi cái gì đó trọn vẹn và đúng đắn,
đã rộng mở bản thân và cho hết mọi thứ? Có bao giờ chúng ta cất đi chiếc mặt
nạ, lột bỏ bộ áo giáp, chiếc áo sơ-mi, da thịt và các tĩnh mạch, cho đến tận
trái tim? Đây là câu hỏi căn bản. Chúng ta phải thật sự tuân phục, cho đi cái
gì đó, cho hết cái gì đó một cách rất đau đớn. Chúng ta phải bắt đầu tháo dỡ
cấu trúc căn bản của cái tự ngã chúng ta đã tìm cách tạo ra. Tiến trình tháo
dỡ, xóa bỏ, mở ra, từ bỏ, là tiến trình học hỏi đích thực. Chúng ta đã quyết
định từ bỏ được bao nhiêu hoàn cảnh cái móng chân mọc ngược vào trong này? Hầu
như chúng ta đã không tìm cách buông bỏ bất cứ cái gì cả. Chúng ta chỉ gom góp,
xây dựng, thêm vào lớp này lên lớp khác. Vì thế viễn ảnh một con đường khó thì
rất đáng sợ.
Vấn đề là chúng ta có khuynh hướng kiếm
tìm một câu trả lời dễ dãi và êm dịu. Nhưng cái loại giải pháp này không dùng
được cho con đường tâm linh, con đường mà nhiều người trong chúng ta không nên
bắt đầu chút nào. Một khi đã dấn thân vào con đường tâm linh thì nó rất đau
đớn; và chúng ta sắp sửa bị kẹt rồi. Chúng ta đã hứa chấp nhận sự đau đớn khi
phơi bày hết bản thân chúng ta, khi tước bỏ hết quần áo, da thịt, thần kinh,
tim, não, cho đến khi chúng ta trần truồng trước vũ trụ. Sẽ chẳng còn lại gì.
Nó thật khủng khiếp, đau đớn; nhưng đó là con đường như nó là.
Bằng cách nào đó, chúng ta thấy mình
đang ở cùng một bác sỹ xa lạ. Ông ấy sắp giải phẫu chúng ta, nhưng ông sẽ không
dùng một liều thuốc mê, vì ông muốn nối kết với căn bệnh của chúng ta. Ông sẽ
không để cho chúng ta mang cái vẻ ngoài tâm linh, sự tinh tế tâm lý, căn bệnh
tâm lý giả dối hay bất kỳ lớp hóa trang nào khác. Chúng ta mong chúng ta đừng
bao giờ gặp ông. Chúng ta mong chúng ta hiểu cách tự gây mê cho mình. Nhưng giờ
đây chúng ta sắp phải đối mặt với điều không hay. Không còn lối ra. Không phải
vì ông ấy đầy quyền lực. Chúng ta có thể nói lời từ giã với ông trong vòng một
phút và bỏ đi. Nhưng chúng ta đã phơi bày quá nhiều với người y sỹ này và, nếu
chúng ta phải làm thế một lần nữa, nó sẽ rất đau khổ. Chúng ta không muốn phải
làm thế lần nữa. Vì thế bây giờ chúng ta phải đi cho hết con đường.
Ở cùng bác sỹ này là một điều cực kỳ khó
chịu đối với chúng ta vì chúng ta đang cố gắng liên tục tìm cách lừa ông ấy,
mặc dù chúng ta biết ông nhìn thông suốt các trò chơi của chúng ta. Cuộc giải
phẫu này là cách duy nhất để ông ấy kết nối với chúng ta, vì thế chúng ta phải
chấp nhận; chúng ta phải khai mở chính mình trước con đường khó này, trước cuộc
giải phẫu này. Chúng ta càng hỏi những câu hỏi như “Ông sắp làm gì với tôi?”
thì chúng ta càng trở nên bối rối, vì chúng ta biết chúng ta là gì. Đó là một
con đường cực kỳ hẹp, không lối thoát, một con đường khốn khổ. Chúng ta phải
triệt để tuân phục và nối kết với y sỹ này. Hơn nữa, chúng ta phải bóc đi cái
vỏ mong chờ phép lạ đến từ vị guru của chúng ta. Chúng ta đừng tơ tưởng ông sẽ
dùng thần thông để thâu nhận chúng ta theo những cách dị thường và êm ái nào đó.
Chúng ta phải từ bỏ sự trông ngóng một cuộc giải phẫu êm ái, từ bỏ hy vọng ông
sẽ dùng một liều thuốc mê hay giảm đau để khi chúng ta tỉnh dậy thì mọi thứ sẽ
hoàn hảo. Chúng ta phải sẵn sàng nối kết theo một cách hoàn toàn cởi mở và
thẳng thắn với người bạn tâm linh của chúng ta và với cuộc đời chúng ta, không
có bất kỳ góc nào bị che giấu. Điều này thật khó khăn và đau khổ; đó là con
đường khó.
Hỏi: Có phải phơi bày tự thân là điều
xảy ra tự nhiên, hay có một cách để làm thế, một cách để khai mở?
Đáp: Tôi nghĩ nếu bạn đã tình nguyện
chấp nhận tiến trình phơi bày tự thân thì bạn càng ít cố gắng khai mở bao
nhiêu, tiến trình khai mở sẽ trở nên rõ ràng bấy nhiêu. Tôi muốn nói đó là một
hành động tự nhiên hơn là cái gì đó bạn phải làm. Lúc đầu, khi chúng ta bàn đến
sự tuân phục, tôi đã nói một khi bạn đã phơi bày mọi thứ trước người bạn tâm
linh của bạn thì bạn không phải làm bất cứ điều gì nữa. Đó là việc chỉ chấp
nhận những gì đang là, điều chúng ta thường làm trong bất cứ trường hợp nào.
Chúng ta thường tìm thấy mình trong những hoàn cảnh hoàn toàn trần trụi, ước
mong có quần áo để mặc vào. Những hoàn cảnh khó chịu này luôn xuất hiện với
chúng ta trong đời sống.
--Hỏi: Chúng ta phải có một người bạn
tâm linh trước khi chúng ta có thể phơi bày tự thân, hay chúng ta có thể chỉ
rộng mở bản thân trước những hoàn cảnh của cuộc sống?
--Đáp: Tôi nghĩ bạn cần người nào đó
quan sát bạn làm điều này, vì lúc đó nó hình như thật hơn đối với bạn. Cởi hết
quần áo trong một căn phòng không có ai thì dễ, nhưng chúng ta sẽ thấy khó làm
thế trong một phòng đông người.
--Hỏi: Vì thế, đó thật sự là sự phơi bày
tự thân chúng ta trước chính chúng ta?
--Đáp: Vâng. Nhưng chúng ta không nhìn
thấy điều đó theo cách đó. Chúng ta có một ý thức mạnh mẽ về khán giả vì chúng
ta có quá nhiều tỉnh giác về chính chúng ta.
--Hỏi: Tôi không hiểu tại sao việc thực
hiện khổ hạnh và quán triệt kỷ luật không phải là con đường khó “thật sự”.
--Đáp: Bạn có thể tự lừa mình, nghĩ rằng
bạn đang đi trên con đường khó, trong khi bạn không thật sự làm thế. Nó giống như
tham gia một vở kịch làm anh hùng. “Con đường mềm” dính líu nhiều đến kinh
nghiệm về anh hùng tính, trong khi con đường khó thì có tính riêng tư nhiều
hơn. Sau khi đi qua con đường anh hùng, bạn vẫn còn con đường khó để đi; một
điều thật sửng sốt khi phát hiện thấy.
--Hỏi: Có nhất thiết phải đi qua con
đường anh hùng trước, và có cần thiết phải kiên trì trên con đường anh hùng để
có thể tiếp bước trên con đường khó thật sự?
--Đáp: Tôi không nghĩ thế. Đây là điều
tôi đang cố chỉ ra. Nếu bạn dự vào con đường anh hùng thì bạn thêm vào các lớp
hay các lớp da vào con người bạn; vì bạn nghĩ bạn đã thành tựu cái gì đó. Về
sau, bạn ngạc nhiên thấy rằng lại cần đến một cái gì khác. Ta phải lột bỏ các
lớp và các lớp da đó đi.
--Hỏi: Ông nói về sự cần thiết phải kinh
nghiệm các nỗi đau. Một sự hiểu biết về tiến trình cởi bỏ mặt nạ có thể khiến
ta không cần phải trải qua sự đau đớn này không?
--Đáp: Đó là một phát biểu rất dễ hiểu
nhầm. Hiểu biết không có nghĩa bạn đã thật sự làm điều đó; bạn chỉ mới hiểu.
Chúng ta có thể hiểu tiến trình sinh lý của một người bị tra tấn và chịu đau
như thế nào, nhưng kinh nghiệm đích thực thì khác hoàn toàn. Sự hiểu biết mang
tính triết học hay tri thức về đau khổ thì không đủ. Bạn phải thật sự cảm nhận
điều gì đó một cách chính xác. Cách duy nhất để đạt đến cốt lõi của sự việc là
tự thân bạn thật sự kinh nghiệm nó; tuy nhiên, bạn không phải tạo ra các tình
thế đau khổ. Các tình thế này sẽ xuất hiện với sự trợ giúp của một người bạn
tâm linh; đó là một bác sỹ với con dao sắc bén.
--Hỏi: Nếu ông đang ở trong tiến trình
tuân phục, và vào lúc đó, người bạn tâm linh của ông dường như đang chĩa chiếc
dao mổ vào ông và không có gây mê cho ông thì lúc đó tình thế thật cực kỳ khủng
khiếp. Người bạn tâm linh của ông dường như rất giận dữ và phẫn nộ, và ông muốn
bỏ chạy. Xin ông giải thích trường hợp này?
--Đáp: Đó đúng là vấn đề. Đó là vấn đề
giải phẫu mà không dùng đến thuốc mê. Bạn phải sẵn sàng để làm điều đó. Nếu bạn
bỏ chạy thì lúc đó sẽ giống như một người cần cắt ruột thừa nhưng lại bỏ chạy
ra khỏi phòng mổ; ruột thừa người ấy có thể bị vỡ.
--Hỏi: Nhưng điều này chỉ mới ở vào giai
đoạn sơ khởi trong quan hệ của ông với người bạn tâm linh; ông chỉ mới gặp ông
ta có năm phút. Bất ngờ mái nhà sụp xuống và ông ta bỏ đi, để mặc ông tự xoay
xở. Có lẽ ông ấy nói, “Tôi không đi cùng anh trên chuyến đi này nữa. Năm phút
đã trôi qua. Hãy bỏ cuộc thôi, hãy buông bỏ tất cả, hãy tự xoay xở lấy; và khi
anh đã cắt đứt được rồi thì tôi sẽ nói chuyện với anh.” Tôi đã kinh nghiệm được
điều đó như thế.
--Đáp: Như bạn thấy, không quan trọng
bạn là người sơ cơ hay đã tu học lâu năm. Vấn đề là người học đã gần gũi với
chính mình được bao nhiêu. Nếu anh ta đã thân cận với chính mình thì anh ta
phải biết rõ bản thân mình. Nó giống như một căn bệnh thông thường. Giả sử bạn
đang đi từ nước này sang nước khác và bạn bị bệnh và bạn quyết định đi khám bác
sỹ. Ông ta không rành ngôn ngữ của bạn lắm, nhưng ông ta có thể khám người bạn
và thấy bạn không ổn. Ông ta quyết định đưa bạn đến bệnh viện để mổ. Điều này
tùy thuộc bệnh của bạn đã phát đến mức độ nào. Mức độ giải phẫu cũng tùy thuộc
diễn biến của bệnh. Bạn có thể bị vỡ hoàn toàn. Nếu bạn bị viêm ruột thừa và
bác sỹ phải chờ quá lâu, có lẽ để được làm bạn với bạn, thì ruột thừa của bạn
sẽ bị vỡ. Bạn sẽ không nói đó là phương thức hoàn hảo để thực hành y học.
--Hỏi: Tại sao có người chọn bước đầu
tiên đó trên con đường này? Cái gì dẫn dắt người đó làm thế? Sự ngẫu nhiên, số
phận, nghiệp, hay cái gì?
Đáp: Nếu bạn phơi bày trọn vẹn bản thân
thì bạn đã ở trên con đường rồi. Nếu bạn dấn thân nửa vời thì bạn chỉ mới ở một
phần đường. Điều này sẽ tác động trở lại lên chính bạn. Nếu bạn không cung cấp
nhiều thông tin cho bác sỹ, bạn sẽ chậm hồi phục, vì bạn đã không kể hết lịch
sử căn bệnh của bạn. Bạn kể cho bác sỹ càng nhiều, ông càng chữa cho bạn chóng
lành.
--Hỏi: Nếu con đường khó đúng nghĩa là
sự phơi bày tự thân thì tôi có nên phơi bày chính mình đến mức tôi xem là xấu
xa, và biết rằng mình sẽ bị tổn thương?
--Đáp: Cởi mở không phải là việc đày đọa
bản thân trước mọi nguy cơ có thể xảy đến. Bạn không phải đứng trước đầu xe lửa
đang chạy đến để khai mở bản thân bạn với nó. Đó là cách làm anh hùng, là con
đường khó sai lạc.
Bất cứ khi nào chúng ta đối mặt với điều
chúng ta xem là “xấu xa” thì nó đều đặt để một sự đe dọa lên việc tự duy trì của
tự ngã. Chúng ta mãi lo bảo tồn hiện hữu của chúng ta trước mối đe dọa này đến
độ chúng ta không thể nhìn thấy nó rõ ràng. Để khai mở, chúng ta phải xuyên qua
ước muốn duy trì tồn tại này. Lúc đó chúng ta mới có thể nhìn thấy và ứng phó
với tình thế này một cách rõ ràng như nó đang là.
--Hỏi: Đây không phải một thỏa thuận một
lần rồi thôi, có phải không? Ý tôi là ông có thể khai mở tự thân trong một bối
cảnh nhất định; thế nhưng, khi ở vào một hoàn cảnh khác nào đó, đột nhiên ông
lại lấy một chiếc mặt nạ và đeo lên mặt, cho dù ông không muốn làm thế. Hình
như thành tựu được sự rộng mở toàn triệt là một điều khó khăn.
--Đáp: Vấn đề cốt lõi là sự chiến đấu
thì không thích đáng đối với việc khai mở. Một khi bạn đã bước vào con đường,
nếu bạn từ bỏ sự chiến đấu, điều đó sẽ quán xuyến toàn bộ vấn đề. Lúc đó, không
còn bất cứ vấn đề nào về việc muốn hay không muốn cuốn vào trong những hoàn
cảnh sống. Bản năng chạy nhảy của tự ngã tan rã vì nó dựa vào các thông tin
truyền lại hơn là vào kinh nghiệm trực tiếp về những gì đang là. Sự chiến đấu
chính là tự ngã. Một khi bạn đã từ bỏ chiến đấu thì sẽ không còn lại ai chinh
phục sự chiến đấu; nó đã biến mất. Vì thế, bạn thấy đấy, đây không phải là vấn
đề thắng được sự chiến đấu.
--Hỏi: Khi ông giận dữ, ông có biểu lộ
cơn giận đó để sẵn sàng khai mở không?
--Đáp: Khi chúng ta nói về sự khai mở và
tuân phục, ví dụ đang trong cơn giận dữ chẳng hạn, không có nghĩa chúng ta phải
thật sự đi ra ngoài và đánh ai đó ngay tại chỗ. Điều đó dường như là một cách
nuôi dưỡng tự ngã hơn là biểu lộ cơn giận của bạn một cách đúng đắn, nhìn thấy
được phẩm chất sống động của nó. Điều này áp dụng vào việc phô bày bản thân nói
chung. Đó là việc nhìn thấy tính chất căn bản của hoàn cảnh, như nó là, hơn là
cố làm điều gì đó với nó. Dĩ nhiên, nếu người ta hoàn toàn cởi mở trước hoàn
cảnh mà không có bất kỳ định kiến nào, người ta sẽ biết hành động nào đúng và
hành động nào không khéo léo. Nếu một chuỗi hành động đặc biệt nào đó vụng về
và không khéo léo thì bạn sẽ không chọn ngã ba đường; bạn sẽ chọn con đường
hành động khéo léo và sáng tạo. Bạn không thật sự liên can đến sự phán xét như
thế, nhưng bạn đã chọn con đường sáng tạo.
--Hỏi: Có phải việc gom góp các thứ và
ngụy trang phòng vệ là một giai đoạn không thể trốn tránh được?
--Đáp: Chúng ta gom góp các thứ và sau
đó lại đau khổ cho đi tất cả. Nó giống như những đường chỉ khâu ở da sau khi
mổ. Thật kinh khủng nếu phải lấy chúng ra; chúng ta sợ; chúng ta đã quen với
một yếu tố xa lạ trong hệ thống của chúng ta.
--Hỏi: Ông có nghĩ có thể bắt đầu nhìn
thấy cái đang là, nhìn thấy chính bản thân ông như ông đang là, mà không phải
có một người thầy?
--Đáp: Tôi nghĩ không thể nào làm được
như thế cả. Bạn phải có một người bạn tâm linh để tuân phục và khai mở toàn bộ
bản thân bạn.
--Hỏi: Có tuyệt đối cần thiết là người
bạn tinh thần phải là một người sống?
--Đáp: Vâng. Nếu bạn nghĩ bạn có thể kết
nối với bất cứ một “hữu thể” nào khác thì hữu thể đó chỉ là một nhân vật tưởng
tượng.
--Hỏi: Tự thân giáo lý của chúa Giê-su
có phải là một người bạn tâm linh?
--Đáp: Tôi không muốn nói như thế. Đó là
một tình thế tưởng tượng. Bất cứ giáo lý nào cũng sẽ như thế; không nhất thiết
phải là giáo lý của chúa Giê-su. Vấn đề là tự thân chúng ta có thể suy diễn
chúng. Đó là điểm cốt lõi: những giáo lý lưu lại bằng văn tự thì luôn luôn bị
tự ngã suy diễn.
--Hỏi: Khi ông nói về sự cởi mở và phô
bày bản thân ông, tôi đã nhớ lại nhiều trường phái tâm lý trị liệu. Ông nghĩ
những điều người ta làm trong liệu pháp này có tác dụng gì?
--Đáp: Trong hầu hết các dạng chữa bệnh
bằng tâm lý thì vấn đề là, nếu bạn xem tiến trình này để “chữa bệnh” thì bạn
không thật sự ám chỉ điều đó, nhưng nó lại là cái được thực hiện để chữa bệnh.
Nói cách khác, sự chữa bệnh của bạn là một sở thích riêng. Hơn nữa, bạn xem
tình thế trị liệu của bạn đang được tiền sử bệnh lý của bạn chỉ rõ. Vì điều gì
đó bất ổn trong sự liên hệ với cha và mẹ bạn nên bạn mới có khuynh hướng … suy
yếu này. Một khi bạn bắt đầu tìm hiểu toàn bộ tiền sử bệnh lý của một người, và
cố gắng làm cho phù hợp với hiện tại, thì người đó bắt đầu cảm thấy không có
lối thoát và hoàn cảnh hiện tại thì vô vọng; vì người đó không thể khước từ quá
khứ của mình. Người đó cảm thấy bị kẹp trong cái bẫy quá khứ không một lối
thoát. Loại trị liệu này thì cực kỳ vụng về. Nó có tính cách phá hoại vì nó cản
trở sự liên kết với khía cạnh sáng tạo của những gì đang xảy ra ngay bây giờ,
những gì ở đây, ngay bây giờ. Tuy nhiên, mặt khác nếu tâm lý liệu pháp được
trình bày với sự nhấn mạnh về việc hãy sống trong giây phút hiện tại, giải
quyết những vấn đề hiện tại, không chỉ qua sự diễn đạt bằng ngôn từ và tư
tưởng, mà bằng sự kinh nghiệm các cảm xúc và cảm giác, thì tôi nghĩ đó là một
thể thức rất cân bằng. Điều không may là có nhiều loại tâm lý liệu pháp và
nhiều nhà trị bệnh bằng tâm lý lại bị cuốn vào việc cố chứng thực bản thân và
lý thuyết của riêng họ, hơn là hành động với cái đang là. Thật ra thì họ thấy
rất đáng sợ khi hành động với những gì đang là.
Chúng ta phải đơn giản hóa hơn là làm
phức tạp vấn đề bằng bất cứ lý thuyết nào. Tình thế của cái bây giờ, chính
khoảnh khắc này, chứa đựng toàn bộ các tiền sử bệnh lý và các quyết định thuộc
tương lai. Mọi cái đều có ngay ở đây, vì thế chúng ta không phải đi xa hơn điều
này để chứng thực chúng ta đã là hoặc đang là hoặc có thể là ai. Ngay khi chúng
ta cố khám phá quá khứ thì chúng ta đã bị cuốn vào tham vọng và sự chiến đấu ở
hiện tại, và không thể nào chấp nhận giây phút hiện tại như nó đang là. Điều
này rất hèn nhát. Hơn nữa, chẳng lành mạnh chút nào khi xem nhà trị liệu hay vị
guru như là người cứu rỗi chúng ta. Chúng ta phải tự mình đi lên. Thật sự không
còn chọn lựa nào khác. Người bạn tâm linh có thể cường điệu hóa nỗi đau của
chúng ta trong những hoàn cảnh nào đó. Đó là một phần của mối quan hệ y sỹ-bệnh
nhân. Ý nghĩa chính là đừng xem con đường tâm linh như cái gì đó rất xa hoa và
hoan lạc, mà hãy xem đó chỉ là sự đối mặt với những sự kiện của đời sống.
******
Chương 7: Con Đường Mở
Vào lúc này nên minh bạch rằng để tìm
thấy con đường mở, trước hết chúng ta phải kinh nghiệm sự tự dối mình đúng như
nó là, phô bày bản thân một cách trọn vẹn. Có thể chúng ta vẫn còn ngần ngại
không muốn xem xét một chủ đề nhiều triển vọng như con đường mở, vì chúng ta đã
quá mệt mỏi với những tham vọng của mình. Tuy nhiên sự cẩn trọng của chúng ta
là dấu hiệu cho thấy chúng ta sẵn sàng suy nghĩ về nó. Thực ra sự ngần ngại vào
thời điểm này cũng có thể là một hình thức khác của sự tự dối mình: bỏ qua các
giáo huấn với lý do căn bản là đang cố gắng trở thành hoàn hảo và cực kỳ cẩn
trọng.
Sự tiếp cận con đường mở nằm ở kinh
nghiệm phô bày tự thân – một kinh nghiệm chúng ta đã bàn đến trong chương “Nhập
Môn” –, kinh nghiệm khai mở tự thân trước cuộc sống, là những gì bạn đang là,
trình hiện các phẩm tính tích cực và tiêu cực trước người bạn tâm linh của
mình, và dần dần đi hết con đường của mình. Sau khi đã trình hiện bản thân, đã
kinh nghiệm được sự nhập môn, sự giao hội giữa hai tâm, thì bạn có thể có
khuynh hướng đánh giá các thành tích của mình. Bạn đã kinh nghiệm được một sự
vụ phi thường như thế; bạn đã có thể khai mở, và người bạn tâm linh đã khai mở,
và bạn đã gặp được tự thân và người bạn tâm linh trong cùng khoảnh khắc. Điều này
thật phấn chấn, đẹp đẽ.
Vấn đề nằm ở sự kiện chúng ta đang luôn
cố gắng bảo vệ bản thân, luôn tái khẳng định chúng ta hoàn toàn đúng. Chúng ta
thường xuyên tìm kiếm cái gì đó chắc chắn để bám vào. Cái hoàn cảnh “nhiệm mầu”
của sự giao hội giữa hai tâm là một kinh nghiệm kỳ diệu đến độ dường như nó làm
mạnh thêm sự mong đợi của chúng ta trước những điều kỳ diệu và huyền thuật.
Vì thế bước kế tiếp trên con đường tự
dối mình là mong muốn nhìn thấy những điều nhiệm mầu. Chúng ta đã đọc nhiều
cuốn sách mô tả đời sống của các hành giả du-già, các vị giáo thọ Ấn giáo, các
thánh giả, và hiện thân các thần linh. Và tất cả dường như đều nói về những
điều mầu nhiệm phi thường. Hoặc có người đi xuyên qua tường hoặc có người lật
ngược lại thế giới – tất cả những điều huyền diệu này. Bạn muốn chứng thực với
bản thân rằng những điều mầu nhiệm như thế thật sự hiện hữu, vì bạn muốn chắc
chắn rằng bạn đứng về phía guru, phía giáo thuyết, phía những điều mầu nhiệm.
Bạn muốn chắc chắn rằng những gì bạn đang làm thì an toàn và mạnh mẽ, một sự
kiện gây ấn tượng sâu đậm. Bạn muốn chắc chắn rằng bạn đứng về phía những
“người tốt.” Bạn muốn trở thành một trong những ít người đã làm được điều kỳ
diệu, phi thường, siêu phi thường, một trong những người lật ngược thế giới:
“Tôi thật sự nghĩ rằng tôi đang đứng trên nền nhà, nhưng tôi thấy mình đang
đứng trên trần nhà!” Sự lóe sáng đột ngột của lần hội ngộ với người bạn tâm
linh, sự giao hội giữa hai tâm, rõ ràng có thực, một kinh nghiệm thật sự, hoàn
toàn ấn tượng, một sự kiện nhiệm mầu. Có lẽ chúng ta không hoàn toàn chắc chắn
tuyệt đối, nhưng rõ ràng một điều mầu nhiệm như thế phải hàm ý rằng chúng ta
biết rõ cái gì đó, rằng cuối cùng chúng ta đã tìm thấy con đường chân thật.
Những cố gắng mãnh liệt như thế, nhằm tự
chứng thực những gì chúng ta làm đều đúng đắn, chỉ ra một trạng thái tâm rất
hướng nội; người ta rất có ý thức về chính mình và trạng thái tồn tại của chính
mình. Chúng ta cảm thấy chúng ta là một thiểu số, đang làm điều gì đó rất phi
thường, và khác với mọi người khác. Loại nỗ lực nhằm chứng thực sự độc đáo của
chính mình này chỉ là một nỗ lực nhìn nhận giá trị sự tự dối mình của chúng ta.
“Dĩ nhiên tôi đã kinh nghiệm được một điều phi thường; dĩ nhiên tôi đã nhìn
thấy phép lạ; dĩ nhiên tôi đã có được sự quán chiếu nội tại; vì thế, tôi đang
tiếp tục đi.” Đây là một tình thế rất khép kín, quay vào bên trong. Chúng ta
không có thì giờ liên hệ với bất cứ ai, bạn bè hay người thân, và thế giới bên
ngoài. Chúng ta chỉ quan tâm đến bản thân mình.
Cuối cùng cách tiếp cận này trở nên buồn
tẻ và nhạt nhẽo. Chúng ta bắt đầu ý thức rằng chúng ta đã và đang lừa dối mình,
và chúng ta bắt đầu tiến lại gần hơn con đường mở đúng nghĩa. Chúng ta bắt đầu
nghi ngờ: mọi niềm tin của chúng ta đều là hoang tưởng, chúng ta đã làm méo mó
kinh nghiệm của chính mình bằng việc đánh giá nó. “Đúng là tôi đã có giây phút
đốn ngộ lóe sáng, nhưng cùng lúc tôi đã cố gắng sở hữu nó, nắm bắt nó, và nó đã
biến mất.” Chúng ta bắt đầu khám phá rằng sự tự dối mình không có tác động nào
cả; nó chỉ đang cố gắng an ủi chúng ta, cố gắng tiếp xúc với chính mình ở bên
trong, cố gắng chứng thực điều gì đó với chính mình, hơn là cởi mở thật sự. Vào
thời điểm này, có lẽ người ta bắt đầu tự trừng phạt mình, nói rằng, “Nếu mình
cố đừng lừa dối mình thì đó cũng là một loại tự dối mình khác; và nếu mình cố
tránh đừng làm thế thì đó cũng vẫn là tự dối mình. Mình có thể thoát ra bằng
cách nào đây? Và nếu mình đang cố giải thoát chính mình thì đó cũng là một dạng
tự dối mình khác,” và thế là cái phản ứng dây chuyền cứ diễn ra, diễn ra; phản
ứng dây chuyền của những hoang tưởng chồng chất.
Sau khi khám phá sự tự dối mình, chúng
ta phải khổ sở vì sự hoang tưởng khủng khiếp và sự tự phê phán mình, thế nhưng
điều này lại rất có ích. Thật hay khi kinh nghiệm được tính chất vô vọng của
mọi tham vọng, của việc cố gắng khai mở, của việc cố cổ vũ bản thân mình; bởi
vì điều này chuẩn bị sẵn bối cảnh cho một loại thái độ khác hướng về tâm linh.
Toàn bộ vấn đề chúng ta đang cố gắng đạt đến là – chúng ta sẽ thật sự khai mở vào lúc nào? Hoạt động của
tâm thức chúng ta nó chồng chất như thế, khép kín như thế, một cái móng chân
đang mọc ngược vào trong: nếu ta làm cái này thì cái kia sẽ xảy ra; nếu ta làm
cái kia thì cái này sẽ xảy ra. Làm sao ta có thể thoát ra khỏi sự tự dối mình?
Ta thừa nhận nó, ta nhìn thấy nó, nhưng ta thoát ra bằng cách nào?
Tôi sợ rằng mỗi người chúng ta đều phải
tự vượt qua điều này. Không phải tôi đang cung cấp một chuyến du lịch đến giác
ngộ có kèm theo người hướng dẫn. Tôi không bảo đảm bất cứ điều gì, mà tôi chỉ
đang gợi ý rằng có lẽ có cái gì đó bất ổn với cách tiếp cận này.
Có lẽ chúng ta thật sự cảm thấy cái gì
đó không ổn với phương thức này; và chúng ta tìm kiếm lời khuyên từ guru của
chúng ta.
“Dĩ nhiên tôi hoàn toàn tin rằng con
đường này đúng đối với tôi – chúng ta không phải bàn cãi gì nữa. Thế nhưng hình
như có gì đó bị nhầm. Tôi đã tự thân nỗ lực không ngừng, nhưng tôi thấy mình bị
cuốn vào một loạt phản ứng của những thất bại chồng chất.”
“Được rồi, rồi sao nữa?”
“Vâng, tôi bận rộn đến độ không làm được
việc gì khác, vì tôi quá ám ảnh bởi tất cả điều này.”
“Được rồi, hãy làm cho mình thư thái.”
“Tôi có thể làm gì đây? Thầy không có đề
nghị nào sao?”
“Tôi e rằng tôi không thể cho anh một
giải pháp tức thời đối với vấn đề của anh. Tôi phải biết điều gì thật sự không
ổn với anh để bắt đầu chứ. Đó là điều mà tất cả những ai chuyên nghiệp đều sẽ
nói. Nếu vô tuyến truyền hình của anh bị hỏng, anh sẽ không thay ngay một cái
đèn chiếu khác. Trước hết, anh phải xem kỹ mọi chi tiết. Bộ phận nào không hoạt
động? Cái đèn nào bị hỏng?”
“Vâng, đúng là hình như không có gì bất
ổn. Nhưng vào lúc tôi cố chạm đến chủ đề thì nó bỗng nổi cáu, nó không còn động
đậy nữa. Khi tôi cố làm gì đó để điều chỉnh thì chẳng có kết quả nào cả. Hình
như có gì đó bị đứt mạch.”
“Vấn đề lớn đấy.”
“Thầy xem, mỗi lần tôi cố gắng nghĩ cách
như thầy và các thầy khác đã bảo, tôi cố gắng, cố gắng mãi, nhưng hình như
không thể nào giải quyết được vấn đề. Mọi thứ tiếp tục bất ổn. Nếu tôi bắt đầu
thực hành asanas, pranamaya, tọa thiền, hay bất cứ điều
gì, cho dù tôi cố làm đúng nhưng cũng những vấn đề đó cứ xảy đến mãi. Tôi tin
tưởng tuyệt đối các giáo thuyết, giáo pháp, phương pháp này – dĩ nhiên là tôi
rất tin. Tôi yêu quý các thầy. Tôi thích các phương pháp. Tôi thật sự như thế.
Tôi tin tưởng hoàn toàn. Tôi biết nhiều người tiến bộ tuyệt vời khi đi trên
cùng con đường tôi đang đi, nhưng sao tôi lại như thế này? Có lẽ nghiệp tôi
xấu, có lẽ tôi là đứa con hư của gia đình. Có thể như thế không? Nếu thế thì
tôi sẽ lết đi bằng đầu gối để hành hương đến Ấn-độ. Tôi không ngại bất cứ sự hy
sinh nào cần thiết. Tôi có thể nhịn đói. Tôi sẽ phát bất cứ thệ nguyện nào,
nhưng tôi chỉ muốn có được điều đó, muốn thật sự hội nhập. Tôi có thể làm gì?
Trong các thánh điển của thầy không có bất cứ cái gì khác chỉ dẫn một điều gì đó
đúng đắn cho một người như tôi sao? Không có một liều thuốc tôi có thể dùng,
một sự hy sinh tôi có thể thực hiện sao?”
“Tôi không biết chắc. Ngày mai hãy trở
lại gặp tôi. Có lẽ chúng ta sẽ có thể tìm thấy điều gì đó.”
Đó là những gì một người bạn tâm linh có
thể nói: “Hãy gặp lại tôi vào ngày mai hoặc cuối tuần. Chúng ta hãy nói chuyện
về trường hợp này nhưng đừng lo.” Rồi bạn lại tìm đến, lại gặp ông ấy. Bạn nghĩ
bạn gặp vấn đề nghiêm trọng và ông ấy đã chuẩn bị sẵn mọi giải đáp đặc biệt
dành cho bạn. Và rồi ông sẽ lại hỏi:
“Anh thế nào rồi? Anh vẫn tiếp tục chứ?”
“Thầy nói thế là ý gì? Tôi đã chờ đợi
lời giải đáp của thầy. Thầy biết tôi
thế nào mà – trông tôi chẳng ra người ngợm gì cả!”
Bạn trở nên rất cục cằn, và dù sao bạn
cũng hoàn toàn có lý. Chẳng có gì xuất hiện, mọi chuyện vẫn bình thường, và rồi
tuần này sang tuần khác, bạn cứ trở lại trở lại mãi. Bạn thất vọng, không tin
là không có gì xuất hiện từ trong toàn thể sự việc, ấp ủ ước mong thầm kín có
lẽ thời cơ sẽ đến vào lần này, hoặc vào tuần thứ tư, hoặc tuần thứ năm, hoặc
tuần thứ bảy. Số bảy là con số rất tượng trưng, rất bí nhiệm. Thời gian tiếp
tục trôi: tuyệt vọng hoàn toàn. Bạn sắp phải tìm kiếm khả năng của những giải
pháp khác. Bạn nghĩ, “Có lẽ ta phải đi gặp người nào khác. Có lẽ ta nên trở lại
nhà và làm việc với những người ta quen biết; hoàn cảnh này quá xa lạ đối với
ta. Hình như chẳng có sự truyền thông nào giữa ông ấy và ta. Ta mong đợi ông sẽ
nối kết với ta như thế nào đó, nhưng thật quá thất vọng, chẳng có gì xảy ra
cả.” Thế là bạn ngồi xuống và chờ đợi. Bất cứ khi nào bạn nhìn thấy ông ấy, hầu
như ngay lập tức bạn biết ông ấy sẽ nói, “Hãy trở lại tham thiền đi,” hoặc “Anh
thế nào rồi? Hãy dùng một tách trà.” Mãi mãi chỉ là những lời như thế.
Có gì bất ổn sao? Thật sự chẳng có gì sai
cả, tuyệt đối chẳng có gì. Hoàn cảnh thì rất đẹp đẽ, đối với người bạn tâm linh
của bạn. Nhưng chính khoảng thời gian bạn đợi chờ, cố gắng vượt qua cái gì đó,
thì bất ổn bởi vì phải chờ đợi trong một khoảng thời gian nào đó có nghĩa rằng
bạn sẽ tập trung rất nhiều vào chính mình, một hoạt động hướng nội hơn là hướng
ngoại. Có một khuynh hướng nhắm đến sự tập trung và có ý niệm về một “sự vụ
nghiêm trọng” liên quan đến tâm lý của bạn, đến tâm trạng của bạn. Đó là cái
bất ổn.
Có lẽ tôi nên kể cho bạn nghe câu chuyện
về Naropa và thầy ông, Tilopa, một nhà hiền triết vĩ đại của Ấn. Tilopa là một
guru đã trải qua mười hai năm với học trò của ông là Niropa, người đã làm cùng
một điều chúng ta đang bàn ở đây. Một hôm Tilopa bảo Naropa, “Nếu ông vào nhà
bếp đó lấy cháo cho ta thì ta sẽ dạy ông, có lẽ ta sẽ dạy ông.” Và rồi Naropa
đã mang được món cháo đó về cho Tilopa sau khi bị những tay làm bếp và người
nhà đánh đập dã man. Ông trở về người đầy máu nhưng rất vui, và khi ông đưa
cháo ra thì Tilopa nói, “Ta muốn dùng một chén nữa. Hãy đi lấy về đi.” Thế là
Naropa lại đi lấy cháo về, bị đánh đập đến độ dở sống dở chết. Ông đã làm thế
vì ông khao khát học được giáo pháp. Rồi Tilopa lại nói, “Cám ơn ông, chúng ta
hãy đi đến nơi khác.” Tình cảnh này cứ tái đi tái lại mãi cho đến khi ý thức
mong đợi của Naropa lên đến cực điểm. Vào đúng lúc đó Tilopa tháo chiếc dép
đang mang đập vào mặt Naropa. Đó là abhisheka, abhisheka cao nhất và sâu sắc
nhất, vĩ đại nhất – bạn có thể dùng nhiều hình dung từ nữa để mô tả – abhisheka
vĩ đại nhất. Bị đánh một chiếc dép vào má và rồi bỗng nhiên chẳng còn gì nữa
cho Naropa hành động.
Thế nhưng chúng ta không được phép cuốn
theo cảnh tượng huyền diệu này. Toàn bộ vấn đề là lối đi mở, là con đường mở.
Chúng ta đã khảo sát và kinh nghiệm toàn bộ sự tự lừa dối. Chúng ta đã mang vác
một gánh nặng như thế, giống như con rùa cưu mang cái vỏ cứng. Chúng ta đã liên
tục cố phong kín bản thân trong cái vỏ cứng này, nỗ lực lọt vào “nơi nào đó”
với tốc độ và sự áp đảo. Chúng ta phải từ bỏ tất cả tốc độ và sự áp đảo, toàn
bộ tính chất đòi hỏi khắt khe này. Chúng ta phải phát triển tâm từ bi đối với
chính chúng ta, và rồi con đường mở sẽ bắt đầu.
Vào lúc này chúng ta nên bàn đến ý nghĩa
của từ bi, vốn là chìa khóa và bầu không khí căn bản của con đường mở. Phương
cách tốt nhất và chính xác nhất để trình bày ý niệm từ bi là dựa vào sự trong
sáng, một sự trong sáng chứa đựng hơi ấm căn bản. Ở giai đoạn này thiền tập
chính là hành động tin tưởng chính bản thân bạn. Khi sự luyện tập của bạn trở
nên nổi bật hơn trong các hoạt động của đời sống thường nhật, bạn bắt đầu tin
tưởng chính bạn và có một thái độ từ bi. Từ bi theo nghĩa này không phải là lấy
làm tiếc cho ai đó; mà nó chính là hơi ấm căn bản. Nơi nào có bao nhiêu không
gian và sự trong sáng hiện hữu thì nơi đó cũng có bấy nhiêu hơi ấm hiện hữu,
một cảm nhận hân hoan về những điều tích cực đang diễn ra không dứt trong chính
bạn. Bất cứ điều gì bạn đang làm đều không được xem như một sự lôi kéo máy móc
dưới dạng thiền định tự tri, mà thiền định là điều tự nhiên và vui thú để làm.
Đó là hành động làm quen với chính bản thân bạn.
Rồi, sau khi đã làm quen với bản thân
mình, bạn không thể chỉ chất chứa tình bạn đó trong mình, mà phải có một chỗ
thoát ra nào đó; đó chính là mối liên hệ giữa bạn với thế giới. Vì thế từ bi
trở thành một cầu nối với thế giới bên ngoài. Sự tin tưởng và lòng từ bi đối
với bản thân mang lại niềm cảm hứng nhảy múa với đời sống, nối kết với các năng
lượng của thế giới. Thiếu loại cảm hứng và cởi mở này, con đường tâm linh trở
thành con đường ham muốn của cõi luân hồi. Ta vẫn bị vướng vào sự ham muốn cải
thiện bản thân, ham muốn thành tựu các mục tiêu tưởng tượng. Nếu chúng ta cảm
thấy không thể thành tựu mục tiêu của mình, chúng ta sẽ chịu sự thất vọng và sự
tự hành hạ của tham vọng không được thỏa mãn. Mặt khác, nếu chúng ta cảm thấy
đang thành tựu mục tiêu của mình, chúng ta có thể trở nên tự mãn và lấn tới.
“Tôi biết tôi đang làm gì, đừng có đụng vào tôi.” Chúng ta có thể phô trương sự
hiểu biết của mình, như những “nhà chuyên môn” chúng ta gặp, những người thông
thạo đề tài của mình. Nếu có ai hỏi những câu hỏi, nhất là những câu hỏi ngu
xuẩn và thách thức, những người đó sẽ nổi giận hơn là cố gắng giải thích bất cứ
điều gì. “Sao ông có thể nói một điều như thế, sao ông có thể mơ đến việc hỏi
những câu hỏi ngu xuẩn như thế? Ông không thấy được điều tôi biết sao?”
Hoặc có thể chúng ta còn thành công với
một dạng tu tập thiền chỉ nhị nguyên nào đó và kinh nghiệm được một loại “trạng
thái huyền bí”. Trong những trường hợp như thế chúng ta có thể tỏ vẻ rất trầm
mặc và tôn giáo theo nghĩa quy ước. Nhưng chúng ta sẽ phải thường xuyên nạp
năng lượng và duy trì “trạng thái huyền bí” của chúng ta, và sẽ có một ý thức
đánh giá liên tục, hành động kiểm tra và đắm mình trong thành tựu của chúng ta.
Đây là trường hợp biến dạng điển hình phép tu thiền định tự điều phục và tự ngộ
của Tiểu thừa, và đó là một dạng lấn lướt theo nghĩa nào đó. Không có yếu tố từ
bi và cởi mở vì ta quá tập trung vào kinh nghiệm của riêng mình.
Từ bi không liên quan gì đến sự thành
tựu. Nó mênh mông và rất độ lượng. Khi một người phát triển lòng từ bi thật sự,
người đó không biết chắc mình độ lượng với người khác hay chính mình; bởi vì từ
bi là lòng độ lượng thuộc về môi trường, không có phương hướng, không có “dành
cho tôi” hay “dành cho người khác.” Nó chan chứa niềm vui, niềm vui sinh khởi
tự nhiên, niềm vui thường hằng trong ý nghĩa của sự tin tưởng, trong ý nghĩa
niềm vui chứa đựng sự giàu có, sự phong phú.
Chúng ta có thể nói rằng từ bi là cử chỉ
tối hậu của sự giàu có: một cử chỉ chống lại sự nghèo nàn, một cuộc chiến chống
lại sự thiếu thốn. Nó chứa đựng mọi loại phẩm tính anh hùng, nhiều màu sắc,
tích cực, nhìn xa trông rộng, bao quát. Và nó ám chỉ khả năng suy tư ở tầm mức
lớn, một lối liên kết tự do hơn và trải rộng hơn với bản thân bạn và thế giới.
Đây đúng là lý do tại sao yana thứ
hai được gọi là “Mahayana,” “Cỗ xe lớn”. Đó là cử chỉ chứng minh rằng bạn sinh
ra vốn đã giàu có hơn là bạn phải trở nên giàu có. Không có loại tin tưởng này,
thiền không thể nào được chuyển thành hành động.
Từ bi tự động mời gọi bạn liên hệ với
người khác, bởi vì bạn không còn coi người khác đang bòn rút năng lượng của
bạn. Họ nạp lại năng lượng cho bạn, vì trong tiến trình liên hệ với họ bạn nhận
ra của cải của mình, sự giàu có của mình. Vì thế, nếu bạn phải làm những việc
khó khăn, chẳng hạn như ứng xử với người khác hay các hoàn cảnh sống, bạn không
cảm thấy mình bị cạn kiệt tài nguyên. Mỗi lần bạn đương đầu với một sự vụ khó
khăn thì sự vụ này xuất hiện như một cơ hội vui thú nhằm biểu hiện sự giàu có
của bạn. Chẳng có cảm nhận nào về sự nghèo nàn trong cách tiếp cận với cuộc
sống này.
Từ bi như chiếc chìa khóa mở vào con
đường mở, hay Đại thừa, giúp bồ-tát thực hiện các hành động siêu việt của mình.
Bồ-tát đạo khởi đầu tiến trình tuân phục với sự độ lượng và cởi mở – cho và cởi
mở. Cởi mở không phải là vấn đề cho ai cái gì đó, mà hàm ý từ bỏ sự đòi hỏi và
các tiêu chuẩn căn bản của sự đòi hỏi của bạn. Đó là dana paramita (bố thí ba-la-mật), paramita của sự độ
lượng. Đó là học cách tin tưởng vào sự kiện bạn không cần phải bảo vệ chỗ đứng
của bạn, học cách tin tưởng vào sự giàu có căn bản của bạn, vào sự kiện bạn có
đủ khả năng khai mở. Đó là con đường mở. Nếu bạn từ bỏ thái độ “đòi hỏi” về mặt
tâm lý thì sức khỏe căn bản bắt đầu tiến triển, sẽ dẫn đến hành động tiếp theo
của bồ-tát, sila paramita (giới ba-la-mật),
paramita về đạo đức hay kỷ luật.
Sau khi khai mở, sau khi từ bỏ mọi thứ
mà không đề cập đến các tiêu chuẩn căn bản “tôi đang làm điều này, tôi đang làm
điều kia,” mà không đề cập đến chính mình, thì những hoàn cảnh khác liên quan
đến việc duy trì tự ngã hay tích lũy đều trở nên không thích hợp nữa. Đó là đạo
đức tối hậu và nó tăng cường hoàn cảnh khai mở và sự can đảm: bạn không lo sợ
làm tổn thương mình hay bất kỳ ai khác vì bạn hoàn toàn cởi mở. Bạn không cảm
thấy chán chường trước mọi hoàn cảnh. Và điều này mang lại sự kiên nhẫn, kshanti paramita (nhẫn nhục ba-la-mật). Và sự kiên nhẫn dẫn đến năng lượng, virya – phẩm tính hân hoan. Có niềm vui
lớn lao của sự hội nhập; đó chính là năng lượng, đồng thời cũng mang lại cái
nhìn bao quát của thiền định mở – kinh nghiệm về dhyana – sự cởi mở. Bạn không xem hoàn cảnh bên ngoài tách rời bạn
vì bạn đã để hết tâm trí như thế vào điệu nhảy và trò chơi của đời sống.
Rồi bạn còn trở nên cởi mở hơn. Bạn
không xem bất cứ điều gì phải bác bỏ hay chấp nhận; bạn chỉ tiến bước cùng với
mỗi hoàn cảnh. Bạn không kinh nghiệm bất cứ loại chiến đấu nào, không cố gắng
đánh bại kẻ thù, cũng không cố gắng thành tựu một mục tiêu. Không có sự liên hệ
nào với việc gom góp hay cho đi. Không hy vọng hay sợ hãi gì nữa cả. Đây là sự
phát triển prajna (trí huệ), cái biết
siêu việt, khả năng nhìn thấy các hoàn cảnh như chúng là.
Vì thế chủ đề chính của con đường mở là
chúng ta phải bắt đầu buông bỏ cuộc chiến đấu căn bản của tự ngã. Việc cởi mở
toàn triệt, việc có được niềm tin tưởng tuyệt đối vào chính bạn là ý nghĩa đích
thực của lòng từ bi và tình thương. Đã có
nhiều bài diễn văn về tình thương và hòa bình và sự thanh bình trên thế
giới. Thế nhưng chúng ta thật sự làm cho tình thương có mặt như thế nào? Christ
nói, “Hãy yêu thương láng giềng của ngươi,” nhưng chúng ta yêu thương bằng cách
nào? Làm thế nào chúng ta làm được điều đó? Chúng ta sẽ bày tỏ tình yêu của
chúng ta đối với toàn thể con người, đối với toàn thế giới như thế nào? “Bởi vì
chúng ta phải, và đó là sự thật!” “Nếu bạn không yêu thương, bạn đáng bị lên
án, là người xấu xa; bạn đang báo hại loài người.” “Nếu bạn yêu thương, bạn đã
ở trên con đường đạo, bạn đã ở trên con đường chánh.” Nhưng làm thế nào? Nhiều
người rất lãng mạn về tình yêu; thật vậy, rất giàu lòng yêu thương. Nhưng rồi
sẽ có một khoảng hở, một khoảng thời gian chúng ta sẽ không giữ được như thế.
Một điều gì khác xảy ra, ngăn trở chúng ta, một việc riêng tư. Chúng ta thường
có khuynh hướng giấu kín; đó là “phần riêng tư,” đáng xấu hổ, không phải phần
thánh thiện. Chúng ta hãy đừng nghĩ về điều đó. Chúng ta chỉ kích hoạt một sự
bùng nổ về tình yêu khác và chúng ta lại tiếp tục, cố quên đi những phần chúng
ta đã bác bỏ trontg hiện hữu của mình, cố trở nên có đức hạnh, yêu thương và tử
tế.
Có lẽ điều này sẽ gạt ra nhiều người,
nhưng tôi e rằng tình yêu không chỉ là kinh nghiệm về cái đẹp và niềm vui lãng
mạn. Tình yêu kết hợp với sự xấu xí và khổ đau và sự áp đảo, cũng như với vẻ
đẹp của thế giới; nó không phải là sự tái tạo bầu trời. Tình yêu hay từ bi, con
đường mở, kết hợp với cái đang là. Để phát triển tình yêu – tình yêu phổ quát,
tình yêu vũ trụ, bất cứ danh xưng nào bạn muốn dùng đến – người ta phải chấp
nhận toàn bộ hoàn cảnh sống như nó là, cả ánh sáng và bóng tối, cái tốt và cái
xấu. Người ta phải cởi mở chính mình trước đời sống, truyền thông với nó. Có lẽ bạn đang chiến đấu để phát triển
tình yêu và hòa bình, chiến đấu để thành tựu những điều này: “Chúng ta sẽ thực
hiện điều đó, chúng ta sẽ chi phí hàng ngàn đô-la để truyền thông học thuyết
tình thương khắp mọi nơi, chúng ta sẽ công bố tình thương.” Okay, hãy công bố
tình thương, hãy làm điều đó, hãy tiêu tiền của bạn, nhưng còn sự hối hả và sự
áp đảo đằng sau những gì bạn đang làm thì sao? Tại sao bạn phải đẩy chúng tôi
vào sự chấp nhận tình thương của bạn? Tại sao lại dính líu đến sự hối hả và sự
bắt buộc như thế? Nếu tình thương của bạn đang vận hành với cùng tốc độ và
chiều hướng giống như lòng sân hận của những người khác thì có cái gì đó dường
như bị sai lệch. Dường như nó sẽ giống như gọi bóng tối là ánh sáng. Có quá
nhiều tham vọng trong đó, mang hình thức rủ rê người khác vào đạo. Đó không
phải là một hoàn cảnh mở của việc nối kết với các sự vật như chúng là. Ý nghĩa
tối hậu của nhóm từ “hòa bình trên trái đất” là vứt bỏ toàn bộ các ý nghĩ hòa
bình và chiến tranh, và mở rộng bản thân bạn một cách đầy đủ và toàn triệt
trước những khía cạnh tích cực và tiêu cực của thế giới. Nó giống như nhìn thế
giới từ một điểm trên không trung: có ánh sáng, có bóng tối; cả hai đều được
chấp nhận. Bạn đừng cố bảo vệ ánh sáng chống lại bóng tối.
Hành động của Bồ-tát giống như mặt trăng
chiếu sáng trên một trăm chén nước, để kết quả là có một trăm mặt trăng, mỗi
mặt trăng trong một chén nước. Đây không phải là sự sắp đặt của mặt trăng, cũng
không do ai sắp đặt; mà vì lý do kỳ lạ nào đó tình cờ có một trăm mặt trăng
phản chiếu trong một trăm chén nước. Sự cởi mở ám chỉ loại tin tưởng và tự tin
tuyệt đối này. Tình cảnh mở của lòng tự bi vận hành theo cách này hơn là dựa
vào nỗ lực chi li nhằm tạo ra một trăm mặt trăng, mỗi mặt trăng trong một chén
nước.
Vấn đề căn bản chúng ta dường như đang
đối mặt là chúng ta quá say mê với nỗ lực chứng thực điều gì đó. Điều này liên
quan đến sự hoang tưởng và cảm giác nghèo nàn. Khi bạn đang cố chứng thực hay
đạt được cái gì đó thì bạn không còn cởi mở nữa, bạn phải kiểm tra mọi thứ, bạn
phải sắp xếp mọi thứ “một cách đúng đắn”. Đó là một lối sống hoang tưởng và nó
thật sự không chứng thực điều gì cả. Người ta có thể đặt ra các kỷ lục về các
con số và các số lượng – như chúng ta đã xây dựng cái vĩ đại nhất, cái to lớn
nhất, chúng ta đã sưu tập nhiều nhất, cái lâu dài nhất, cái khổng lồ nhất. Thế
nhưng ai sẽ nhớ đến kỷ lục này khi chúng ta chết? Hoặc trong vòng một trăm năm?
Hoặc mười năm? Hoặc mười phút? Các kỷ lục được ghi là các kỷ lục của giây phút
được nói đến, của cái bây giờ – cho dù sự nối kết hay cởi mở có thật sự xảy ra
vào lúc này hay không.
Đó là con đường mở, con đường Bồ-tát.
Một bồ-tát sẽ không để tâm, cho dù ông có nhận được một tấm huy chương từ tất
cả chư Phật công bố rằng ông là bồ-tát dũng mãnh nhất trong ba ngàn đại thiên
thế giới; ông không để tâm gì cả. Bạn không bao giờ đọc thấy các câu chuyện về
các bồ-tát nhận được huy chương trong các thánh điển. Và hoàn toàn đúng như
thế, bởi vì họ không có nhu cầu chứng thực bất cứ điều gì. Hành động của bồ-tát
thì tự nhiên; nó là cuộc sống mở, sự nối kết mở, chẳng dình líu gì đến sự tranh
đấu hay hối hả nào cả.
--Hỏi: Tôi tưởng rằng làm một bồ-tát có
nghĩa là giúp đỡ mọi người, và mọi người đều có những đòi hỏi riêng. Vì thế
bồ-tát phải thể hiện những hành vi riêng. Thế nhưng làm thế nào ý tưởng cởi mở
toàn triệt này có thể thích ứng với nhu cầu thể hiện các hành vi riêng rẽ?
--Đáp: Cởi mở không có nghĩa là không đáp
ứng, không phải là một thây ma sống lại nhờ phù phép. Cở mở có nghĩa là tự do
làm bất cứ điều gì được cần đến trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Vì bạn
không mong muốn bất cứ điều gì ở hoàn cảnh nên bạn tự do hành động theo cách
thật sự thích hợp với nó. Và, tương tợ, nếu người khác mong muốn điều gì đó ở
bạn thì đó có thể là vấn đề của họ. Bạn không phải cố lấy lòng bất cứ ai. Cởi
mở có nghĩa “là những gì bạn đang là”. Nếu bạn thoải mái làm chính mình thì một
môi trường của sự cởi mở và nối kết sẽ tự động sinh khởi một cách tự nhiên. Nó
giống như ý tưởng về mặt trăng và các chén nước chúng ta đã bàn đến; nếu có các
chén nước, chúng sẽ phản ánh “tính chất trăng” của bạn. Nếu chén không có ở đó,
sẽ không có phản ánh gì cả. Hoặc nếu chỉ có một nửa số chén thì chúng sẽ phản
ánh một nửa số mặt trăng. Tất cả tùy thuộc vào chúng. Bạn chỉ cần có ở đó, mặt
trăng, cởi mở, và chén có thể phản ánh bạn hoặc không. Bạn không để tâm cũng
không phải không để tâm. Bạn chỉ có ở đó.
Các hoàn cảnh tự động phát triển. Chúng
ta không cần làm cho mình thích nghi với các vai trò và môi trường đặc biệt.
Tôi nghĩ nhiều người trong chúng ta đã cố làm thế trong một thời gian dài, tự
giới hạn chính mình, tự xếp mình vào những nhóm hoàn cảnh hạn hẹp. Chúng ta
dành nhiều thời giờ tập trung chú ý vào chỉ một chỗ đến độ chúng ta ngạc nhiên
nhận ra rằng có những khu vực chúng ta đã bỏ quên toàn bộ.
--Hỏi: Người ta có thể hành động với tâm
từ bi mà vẫn làm được những điều cần làm không?
--Đáp: Khi không có sự hối hả hay lấn
lướt, bạn cảm thấy có đủ chỗ để đi lại và làm các thứ, và bạn thấy mọi thứ cần
làm rõ ràng hơn. Bạn trở nên có năng lực hơn và công việc của bạn trở nên chính
xác hơn.
--Hỏi: Rinpoche, tôi tin ông đã phân
tích sự khác biệt giữa con đường mở và con đường nội tại. Ông làm ơn nói rõ hơn
những khác biệt gì ông đã thấy giữa con đường nội tại và con đường ngoại tại?
--Đáp: Vâng, từ “nội tại” mà bạn vừa
dùng hình như hàm ý đấu tranh, quay trở vào chính bạn, xem xét có phải bạn là
người có khả năng, có thể phơi bày được, có đủ xứng đáng hay không. Bằng cách
này sẽ có quá nhiều “sự tập trung vào chính mình,” quá nhiều tập trung vào bên
trong. Trong khi con đường mở là sự hoạt động chỉ với những gì đang là, là sự
từ bỏ toàn triệt nỗi sợ hãi điều gì đó sẽ không vận hành được, điều gì đó có
thể kết thúc trong thất bại. Ta phải từ bỏ hoang tưởng rằng ta không thể thích
nghi các hoàn cảnh, rằng ta có thể bị khước từ. Ta chỉ việc hành xử với cuộc
sống như nó đang là.
--Hỏi: Cử chỉ nồng nhiệt phát xuất từ
đâu?
--Đáp: Từ sự vắng bóng sự áp đảo.
--Hỏi: Nhưng đó không phải là mục tiêu
sao?
--Đáp: Cũng giống như con đường, cây
cầu. Bạn không thể sống trên cầu. Bạn đi qua cầu. Trong kinh nghiệm thiền, tự
động có một ý thức nào đó về sự vắng mặt sự áp đảo, vốn là định nghĩa của
dharma (pháp). Dharma được định nghĩa
là “sự bình thản” (dispassion) hay “sự không mê say” (passionlessness), và sự
không mê say hàm nghĩa vắng bóng sự áp đảo. Nếu bạn mê say, bạn sẽ muốn có cái
gì đó thật nhanh để thỏa mãn ham muốn của bạn. Khi không có ham muốn thỏa mãn
bản thân, sẽ không có sự áp đảo hay hối hả. Vì thế, nếu một người có thể thật
sự nối kết với tính chất giản dị của thiền tập, thì tự động sẽ không có sự áp
đảo hiện khởi. Vì không phải ập đến để kiếm chác nên bạn thừa điều kiện để nghỉ
ngơi. Vì bạn thừa điều kiện để nghỉ ngơi nên bạn có đủ khả năng để kết bạn với
chính mình, có đủ khả năng làm tình với chính mình, làm bằng hữu với chính
mình. Lúc đó, những ý tưởng, cảm xúc, bất cứ gì xảy ra trong tâm đều liên tục
nhấn mạnh hành động làm thân với chính bạn.
Một cách diễn tả khác là nói rằng từ bi
là tính chất giống như đất của thiền tập, là cảm nhận về đất và sự rắn chắc.
Thông điệp của hơi ấm từ bi là đừng có vội vã và hãy nối kết với mỗi hoàn cảnh
như nó đang là. Cái tên “Sitting Bull” (Con
Bò Mộng Chồm Hổm) của một người Mỹ da đỏ dường như là một ví dụ hoàn hảo
cho điều này. “Sitting Bull” thì rất rắn chắc và hữu cơ. Bạn thật sự có mặt một
cách rõ ràng, thư thả.
--Hỏi: Hình như ông đã nói rằng từ bi có
phát triển, nhưng điều này hàm ý ông không phải trau dồi nó.
--Đáp: Nó phát triển, lớn mạnh, tự lên
men. Nó không cần đến bất cứ nỗ lực nào.
--Hỏi: Nó có chết không?
--Đáp: Nó hình như không chết.
Shantideva nói rằng mọi hành động không có từ bi thì giống như trồng một cây
khô, nhưng bất cứ cái gì có liên quan đến từ bi thì giống như trồng một cây
xanh. Nó lớn mạnh và lớn mạnh không ngừng và không bao giờ chết. Cho dù nó
dường như chết thì nó luôn để lại đàng sau một hạt giống từ đó một cây khác lại
mọc lên. Từ bi có tính hữu cơ; nó tiếp tục mãi mãi.
--Hỏi: Có một loại hơi ấm nào đó sinh
khởi khi ông bắt đầu nối kết với ai đó, và rồi bằng cách nào đó năng lượng đó
trở nên vượt trội và giữ chặt ông khiến ông không còn một khoảng trống nào để
động đậy cả.
--Đáp: Nếu hơi ấm đó không có ẩn ý và sự
tự tái khẳng định thì nó có tính tự lực và lành mạnh về căn bản. Khi bạn làm
sữa chua, nếu bạn tăng nhiệt độ hay cố gắng ủ lâu hơn mức cần thiết thì bạn
chẳng thể nào có sữa chua ngon. Nếu bạn để ở nhiệt độ thích hợp và đừng có ngó
ngàng gì đến thì sữa chua sẽ ngon.
--Hỏi: Làm thế nào ông biết được khi nào
thì đừng ngó ngàng gì đến?
--Đáp: Bạn không phải thường xuyên quản
lý bản thân. Bạn phải từ bỏ hơn là nỗ lực duy trì sự kiểm soát, hãy tin tưởng
chính bạn hơn là kiểm tra tự thân. Bạn càng cố kiểm soát tự thân thì khả năng
gián đoạn trò chơi tự nhiên và sự phát triển của hoàn cảnh càng trở nên lớn
hơn. Dẫu cho những gì bạn đang làm thì bấp bênh, cho dù dường như toàn bộ sự
việc có thể nổ tung và trở nên dị dạng, bạn không phải lo về điều đó.
--Hỏi: Điều gì xảy ra khi có người tạo
ra một hoàn cảnh và ông thật sự lo lắng về điều đó?
--Đáp: Lo lắng chẳng giúp gì được cả.
Thật vậy, nó khiến cho mọi thứ tồi tệ hơn.
--Hỏi: Hình như tiến trình chúng ta đang
bàn đến đòi hỏi một loại vô úy nào đó.
--Đáp: Vâng, rất nhiều như thế. Đó là
suy nghĩ tích cực, là tính chất tâm linh của sự giàu có.
--Hỏi: Điều gì ông nghĩ là cần thiết cho
một hành động mãnh liệt để cuối cùng làm tốt cho một người?
--Đáp: Bạn chỉ việc làm thế.
--Hỏi: Nhưng nếu vào lúc đó ông không có
từ bi và trí huệ đích thực?
--Đáp: Bạn đừng thắc mắc hay lo lắng về
trí huệ của bạn. Bạn chỉ việc làm bất cứ điều gì cần đến. Tự thân hoàn cảnh bạn
đang đối mặt thì sâu sắc đủ để được xem như sự hiểu biết. Bạn không cần đến
nguồn thông tin thứ hai. Bạn không cần đến sự tăng cường hay các nguyên lý chỉ
đạo hành động. Hoàn cảnh sẽ tự động cung cấp sự tăng cường. Khi mọi thứ phải
được điều động một cách dai dẳng, bạn chỉ phải làm thế vì hoàn cảnh đòi hỏi sự
đáp ứng của bạn. Bạn không định đặt sự dai dẳng; bạn là một công cụ của hoàn
cảnh.
--Hỏi: Ông làm gì cho một cây cầu khi
ông không cảm thấy từ bi?
--Đáp: Bạn không phải cảm thấy từ bi. Đó là sự khác biệt giữa
từ bi thuộc cảm tính và từ bi thuộc từ bi:
bạn không nhất thiết cảm nhận nó; bạn chính
là nó. Thông thường, nếu bạn cởi mở thì từ bi xảy ra vì bạn không bận tâm đến
bất cứ sự lợi dưỡng nào đó.
--Hỏi: Chiếc cầu từ bi có cần đến sự bảo
trì liên tục không?
--Đáp: Tôi không nghĩ thế. Nó đòi hỏi sự
thừa nhận hơn là bảo trì. Đó là tính chất tâm linh của sự giàu có; bạn thừa
nhận rằng cây cầu có ở đó.
--Hỏi: Ông làm gì khi ông sợ hãi ai đó,
có lẽ là có lý do? Đối với tôi, điều này hủy hoại từ bi.
--Đáp: Từ bi không phải là nhìn xuống ai
đó đang cần giúp đỡ, cần chăm sóc, mà nó là cách nghĩ phổ quát, căn bản, hữu
cơ, tích cực. Sự sợ hãi người khác dường như tạo ra sự không biết chắc
(uncertainty) về bạn là ai. Đó là lý do tại sao bạn sợ một hoàn cảnh hay một
người đặc biệt nào đó. Sợ hãi đến từ sự không chắc chắn. Nếu bạn biết chính xác
bạn sẽ điều động hoàn cảnh đáng sợ này như thế nào thì bạn sẽ không sợ hãi. Sợ
hãi xuất phát từ sự hoảng loạn, từ sự hoang mang của tình trạng không chắc
chắn. Sự không chắc chắn liên quan đến sự không tin tưởng vào chính bạn, cảm
nhận rằng bạn không tương xứng để xử lý vấn đề huyền bí đang đe dọa bạn. Sẽ
không có sự sợ hãi nếu bạn thật sự có mối quan hệ từ bi với chính mình, vì lúc
đó bạn biết bạn đang làm gì. Nếu bạn biết những gì bạn đang làm thì những dự
tưởng của bạn cũng trở thành có phương pháp và có thể đoán trước, theo cách nào
đó. Lúc đó, người ta phát triển prajna,
sự biết cách nối kết với bất kỳ hoàn cảnh nào được cho.
--Hỏi: Ông hàm ý gì khi nói đến các dự
tưởng trong văn mạch trên?
--Đáp: Dự tưởng là sự phản chiếu chính
bạn trong tấm gương soi. Vì bạn không chắc chắn về chính mình nên thế giới phản
chiếu lại sự không chắc chắn đó trong chính bạn, và sự phản chiếu này bắt đầu
ám ảnh bạn. Sự không chắc chắn của bạn đang ám ảnh bạn, nhưng đó chỉ là sự phản
chiếu của bạn trong tấm gương soi.
--Hỏi: Ông hàm ý gì khi nói thế, nếu ông
từ bi đối với bản thân thì ông sẽ biết ông đang làm gì?
--Đáp: Hai lĩnh vực thiền định này luôn
luôn xuất hiện cùng lúc. Nếu bạn đang cởi mở với chính bạn và có một thái độ
tích cực đối với chính bạn, thì bạn tự động biết bạn đang làm gì vì bạn không
phải là điều bí hiểm đối với chính bạn. Đây là jnana, “huệ,” “huệ-tỉnh giác-tồn tại-tự nhiên.” Bạn biết rằng bạn
đang tồn tại một cách tự nhiên, bạn biết những gì bạn đang là, vì thế cùng lúc
bạn có đủ điều kiện tin tưởng chính bạn.
--Hỏi: Nếu tôi thật sự kết bạn được với
chính tôi thì tôi sẽ không bao giờ sợ phải phạm sai lầm?
--Đáp: Đúng thế. Tiếng Tây Tạng chỉ cho
trí huệ là yeshe, có nghĩa là “bản
giác”. Bản thân bạn đang ở vào điểm khởi đầu của bất cứ sự khởi đầu nào. Hầu như bạn cũng có thể gọi đó là “niềm tin
vào bản thân từ vô thủy”. Bạn không cần phải tìm kiếm sự khởi đầu gì cả. Đó là
một hoàn cảnh có từ vô thủy, vì thế không cần thiết cố tìm kiếm sự khởi đầu một
cách hợp lý. Sự khởi đầu đã có ở đó.
Nó không có điểm khởi đầu.
******
Chương 8: Ý Thức
Hài Hước
Thật thú vị để khảo sát chủ đề này dựa vào những gì không phải là ý thức hài hước. Sự thiếu
hài hước dường như xuất phát từ thái độ thuộc “sự kiện cứng.” Mọi sự thì rất
cứng và hết sức hiền hòa, hết sức nghiêm trang; hãy thử dùng một ẩn dụ, giống
như một thây ma sống. Thây ma sống trong đau khổ, có một biểu cảm thường hằng
của sự đau khổ trên khuôn mặt nó. Nó đã kinh nghiệm một loại sự kiện cứng –
“thực tại” – nó nghiêm trang hết sức và đã đi xa đến độ trở thành một thây ma
sống. Tính chất cứng nhắc của thây ma sống này diễn tả cái đối nghịch với ý
thức hài hước. Nó giống như có ai đó đang đứng sau lưng bạn, với một lưỡi gươm
nhọn trong tay. Nếu bạn không tập thiền đúng, ngồi yên và thẳng, thì sẽ có ai
đó ở phía sau sắp đánh bạn. Hoặc nếu bạn không cư xử đúng đắn, lương thiện,
thẳng thắn với đời thì người nào đó sẽ đánh bạn. Đây là sự tự ý thức về việc
canh chừng bạn, quan sát bạn một cách không cần thiết. Bất cứ điều gì chúng ta
làm đều không ngừng bị canh chừng và kiểm duyệt. Thật sự không phải người Anh
Em Lớn (Big Brother) đang canh chừng; mà là Thằng Tôi Lớn (Big Me)! Một khía
cạnh khác của tôi đang canh chừng tôi, sau lưng tôi, định đánh tôi, sắp chỉ ra
thất bại của tôi. Chẳng vui thú gì cái kiểu này. Chẳng có chút ý thức hài hước
nào cả.
Cái loại nghiêm trọng này cũng liên quan đến vấn đề duy
vật tâm linh. “Vì tôi là thành phần của một giòng truyền thừa các thiền giả,
kết hợp với nhà thờ và tổ chức, vì sự tận tụy thuộc về tôn giáo của tôi, tôi
phải làm một thanh niên hay thanh nữ tốt, một người đi-nhà-thờ tốt, lương
thiện. Tôi phải thích ứng với các tiêu chuẩn của nhà thờ, các luật lệ và quy
định. Nếu không hoàn thành các quy định, tôi sẽ bị lên án, bị co rút lại thành
một thân thể teo tóp.” Có mối đe dọa của sự trang trọng và cái chết – chết theo
nghĩa chấm dứt bất kỳ tiến trình sáng tạo nào thêm nữa. Thái độ này chứa đựng
cảm giác hạn chế và cứng nhắc; không có chỗ để động đậy gì nữa.
Rồi bạn có thể hỏi, “Còn các truyền thống tôn giáo
lớn, các giáo lý thì sao? Tất cả đều nói đến kỷ luật, các luật lệ và quy định.
Làm thế nào chúng ta có thể dung hòa những điều trên với ý thức hài hước?”
Vâng, chúng ta hãy khảo sát câu hỏi này một cách đúng đắn. Có phải các quy
định, kỷ luật, sự thực hành đạo đức thật sự đặt nền tảng trên thái độ phán xét
thuần túy về cái “tốt” như là cái trái ngược với cái “xấu”? Có phải các giáo lý
tâm linh lớn thật sự tán thành việc chúng ta chống lại cái ác bởi vì chúng ta
đang đứng về phía ánh sáng, phía hòa bình? Có phải những giáo lý này đang bảo
chúng ta chiến đấu chống lại phía “không được mong muốn” kia, chống lại cái xấu
và cái đen tối? Đây là một vấn đề lớn. Nếu có minh triết trong các thánh giáo
thì lẽ ra không nên có chiến tranh. Chừng nào một người còn bị cuốn vào chiến
tranh, cố gắng phòng ngự hoặc tấn công thì hành động của hắn không phải thánh
thiện; nó trần tục, nhị nguyên, một cảnh ngộ thuộc về chiến trường. Người ta sẽ
không mong đợi các giáo lý lớn trở nên chơn chất như thế, cố trở thành thiện,
chống lại cái ác. Đó là cách thức của nền điện ảnh Hollywood Tây phương – ngay
cả trước khi bạn nhìn thấy kết cục, bạn cũng đã biết chính xác “người tốt” sẽ
không bị chết và “kẻ xấu” sắp bị đập nát. Rõ ràng cách thức này thật đơn thuần;
nhưng nó đúng là loại hoàn cảnh chúng ta đang tạo ra dựa vào cuộc tranh đấu
“tâm linh”, dựa vào sự thành tựu “tâm linh”.
Không phải tôi đang nói rằng một ý thức hài hước nên
được buông thả một cách man dại. Tôi chỉ nói về việc nhìn một cái gì đó hơn là
chỉ có đánh nhau, chiến đấu, nhị nguyên. Nếu chúng ta xem con đường tâm linh
như một bãi chiến trường thì đúng là chúng ta yếu đuối và nhu nhược. Lúc đó
bước chân chúng ta trên đường đi sẽ tùy thuộc việc chúng ta đã chinh phục được
một khu vực lớn bao nhiêu, tùy thuộc việc chúng ta khắc phục những lỗi lầm của
bản thân và những người khác, tùy thuộc việc chúng ta đã loại bỏ bao nhiêu tính
tiêu cực. Đối chiếu với bao nhiêu bóng tối bạn đã loại trừ để có bao nhiêu ánh
sáng bạn có thể tạo ra. Điều đó thật bạc nhược; người ta khó có thể gọi đó là
giải thoát hay tự do hay mukti hay nirvana. Bạn đã đạt được giải thoát nhờ
đánh bại được cái gì đó: điều này hoàn toàn tương đối.
Tôi không muốn biến “ý thức hài hước” thành cái gì đó
trang trọng; tôi sợ rằng người ta sắp làm chuyện đó. Thế nhưng, để thật sự hiểu
được sự cứng nhắc, vốn được biểu trưng qua một xác chết, ta không thể tránh
được nguy cơ biến ý thức hài hước thành một thứ nghiêm trọng. Ý thức hài hước
hàm nghĩa nhìn thấy cả hai cực của một hoàn cảnh như chúng đang là, từ một điểm
nhìn từ không trung. Có tốt, có xấu, và bạn nhìn cả hai với một cái nhìn bao
quát dường như nhìn từ bên trên. Rồi bạn bắt đầu cảm thấy rằng những con người
nhỏ bé kia trên mặt đất, đang giết nhau hay đang làm tình hay chỉ đang là những
con người nhỏ bé, thì rất vô nghĩa, theo nghĩa nếu họ bắt đầu thực hiện một thỏa
thuận buôn bán lớn về chiến tranh hay làm tình thì chúng ta bắt đầu nhìn thấy
cái khía cạnh mỉa mai của tiếng la hét ầm ĩ của họ. Nếu chúng ta cố gắng vất vả
để dựng lên một cái gì đó to lớn, thật sự có ý nghĩa, mãnh liệt – “Tôi đang
thật sự tìm kiếm cái gì đó, tôi đang thật sự tranh đấu với những lỗi lầm của
tôi,” hoặc “Tôi đang thật sự cố trở thành người tốt,” – thì cái đó sẽ mất đi
tính chất nghiêm trọng của nó, sẽ trở thành một con cọp giấy; nó cực kỳ mỉa
mai.
Ý thức hài hước dường như xuất phát từ niềm vui không
bờ bến, niềm vui có chỗ để nới rộng thành một hoàn cảnh hoàn toàn mở, bởi vì nó
không dính líu đến trận chiến giữa “cái này” và “cái kia”. Niềm vui phát triển
thành một hoàn cảnh bao quát của sự nhìn thấy hay cảm thấy toàn bộ nền tảng,
cái nền tảng khai mở. Hoàn cảnh mở này không có dấu hiệu của sự hạn chế, của sự
trang trọng bị áp đặt. Và nếu bạn thật sự cố cư xử với cuộc đời như một “sự vụ
nghiêm trọng”, nếu bạn cố định đặt sự trang trọng lên đời sống làm như mọi
chuyện đều ghê gớm lắm thì thật buồn cười. Sao sự việc lại ghê gớm như thế nhỉ!
Một người có thể thử tập thiền theo 100% hay 200% tư
thế đúng. Ghê gớm quá. Thật khôi hài. Hay trong trường hợp khác, một người có
thể cố phát triển một ý thức hài hước, luôn cố gắng đùa cợt mọi thứ, luôn cố
gắng tìm sự hóm hỉnh ở mọi góc, mọi kẽ. Tự thân điều này là một trò chơi rất
nghiêm trọng, đồng thời cũng rất buồn cười. Nếu bạn tạo ra một sự căng thẳng
vật lý đến độ bạn phải nghiến răng, cắn lưỡi, thì đột nhiên sẽ có gì đó làm cho
bạn cảm thấy nhột nhột vì bạn đang tạo ra quá nhiều thứ; một điều ngớ ngẩn đến độ
không thể nào có những hành động lên đến cực điểm như thế. Chính cường độ cực
cao đó sẽ tự động trở thành tính hài hước.
Ở Tây tạng có câu chuyện kể về một nhà sư từ bỏ cuộc
sống hỗn độn của thế gian và quyết định sinh sống trong một hang động để thiền
định suốt đời. Trước khi làm thế nhà sư đã trầm tư liên tục về khổ đau và phiền
não. Nhà sư có tên Ngonagpa-ở-Langru, hay Người-Mặt-Đen-Ở-Langru, vì ông chẳng
bao giờ cười mà chỉ thấy mọi sự trên đời qua đau khổ. Ông đã ẩn cư trong nhiều
năm, rất trang trọng và hết sức hiền lương, cho đến một hôm ông nhìn thấy trên
điện thờ một miếng ngọc lam mà người nào đó đã cúng dường cho ông. Khi nhìn
thấy miếng ngọc thì đồng thời ông cũng nhìn thấy một con chuột bò vào và cố tha
miếng ngọc đi. Con chuột không thể tha được, vì thế nó chui lại vào lỗ và gọi
một con khác. Chúng cố tha miếng ngọc lam đi nhưng vẫn không làm được. Thế là
chúng kêu loạn lên và rủ thêm tám con nữa. Cuối cùng chúng đã tìm cách kéo được
miếng ngọc vào lỗ. Lúc đó, lần đầu tiên Ngonagpa-ở-Langru bắt đầu cười rộ lên
và mỉm cười. Và đó là lần tiếp xúc đầu tiên của ông với sự cởi mở, một tia sáng
giác ngộ lóe lên thình lình.
Vì thế tinh thần hài hước không chỉ là việc cố gắng kể
những câu chuyện cười hay thốt ra những lời bỡn cợt, cố gắng đùa giỡn một cách
chi li. Nó liên quan đến việc nhìn thấy sự châm biếm căn bản của hai cực đoan
nằm kề nhau, để người ta không bị dính mắc vào việc xem chúng quá nghiêm trọng,
để người ta không chơi trò chơi hy vọng và sợ hãi của chúng một cách quá nghiêm
trọng. Đây là lý do tại sao kinh nghiệm con đường tâm linh lại có ý nghĩa như
thế, tại sao việc tập thiền là kinh nghiệm có ý nghĩa nhất trong tất cả. Một
khi bạn đã ngấm vào cái hoàn cảnh đầy ý nghĩa của sự cởi mở đó mà không dính
dáng gì đến việc phán đoán mơ hồ thì bạn bắt đầu nhìn thấy tất cả các trò chơi
đang diễn ra quanh bạn. Có người đang cố trở nên nghiêm khắc và trang trọng về
mặt tâm linh, cố gắng trở thành một người tốt. Một người như thế có lẽ sẽ thấy
rất nghiêm trọng nếu ai đó xúc phạm đến mình, có lẽ sẽ muốn đánh nhau. Nếu bạn
vận hành phù hợp với sự vô nghĩa căn bản của những gì đang là, bạn sẽ bắt đầu
nhìn thấy sự hài hước ở kiểu trang trọng này, ở những người xem mọi thứ như là
một sự vụ gì ghê gớm.
-Hỏi: Hầu hết các luận cứ tôi đã nghe về việc làm điều
tốt và điều đúng đều cho rằng, trước tiên hãy tích tập công đức, hãy làm người
tốt, hãy từ bỏ điều xấu; rồi sau đó sẽ dễ dàng hơn khi từ bỏ những sự “bứt rứt
có tính thiện”. Ông hiểu thế nào về phương cách này?
-Đáp: Nếu xét từ quan điểm ý thức hài hước thì ý tưởng
“từ bỏ” dường như quá thô thiển và ngây thơ. Nếu bạn đang cố trở thành tốt và
từ bỏ mọi thứ thì mỉa mai thay đó không phải là từ bỏ gì cả mà còn cưu mang nhiều
thứ hơn nữa. Đó là khía cạnh nực cười của việc làm đó. Có thể có người nghĩ
mình đủ sức bỏ xuống gánh nặng đang mang, nhưng chính việc không có gánh nặng,
việc buông bỏ, lại trở nên nặng nề hơn, nặng gấp hàng trăm lần những gì người
đó đã để lại đàng sau. Từ bỏ cái gì đó thì dễ nhưng phó phẩm của sự từ bỏ này
có thể bao hàm một tác dụng nào đó rất nặng nề. Mỗi lần bạn gặp ai đó, bạn sẽ
nghĩ và thốt lên, “Tôi đã từ bỏ cái này và cái kia.” Việc “từ bỏ” có thể trở
nên ngày càng nặng hơn, dường như bạn đang vác một bao lớn các hạt mầm trên
lưng. Cuối cùng nó có thể trở thành một cây nấm lớn, càng ngày càng mọc nhanh
hơn mà bạn phải mang. Rồi đến lúc nào đó một người bắt đầu trở nên hoàn toàn
không thể chịu đựng nổi vì đã buông bỏ quá nhiều thứ.
Về vấn đề này, nếu chúng ta xem việc tập thiền như một
sự vụ nghiêm trọng, một sự vụ trọng đại thì nó sẽ trở thành chướng ngại, nặng
nề, và lấn át. Chúng ta cũng sẽ không thể suy nghĩ về nó. Nó sẽ giống như một
người đã ăn một bữa quá no. Anh ta sắp phát bệnh và bắt đầu nghĩ, “Ước gì ta bị
đói. Ít ra như thế cũng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng bây giờ ta đã có tất cả thức
ăn đó trong dạ dày rồi và ta sắp phát ốm đây. Ước gì ta đã không hề ăn.” Người
ta không thể xem tính chất tâm linh nghiêm trọng như thế. Đó là sự tự bại, nó
đi ngược lại ý nghĩa đích thực của sự “từ bỏ”.
-Hỏi: Vậy ý thức bi tráng có phải là cái mà một người
giác ngộ đã vượt qua?
-Đáp: Bạn không nhất thiết phải giác ngộ mới từ bỏ
được sự bi tráng. Nếu bạn chú tâm vào cường độ của các hoàn cảnh ở cực điểm,
vào cường độ của sự bi tráng thì có lẽ bạn cũng bắt đầu nhìn thấy sự hài hước
của các hoàn cảnh này. Như trong âm nhạc, khi ta nghe khúc nhạc mạnh dần, rồi
bỗng nhiên nếu nhạc dừng lại thì ta bắt đầu nghe các dấu lặng như một phần của
bản nhạc. Đó chẳng phải là một kinh nghiệm phi thường gì cả; nó rất bình
thường, rất trần tục. Đó là lý do tại sao tôi nói nó là một trong những kinh
nghiệm vô nghĩa nhất, vì chúng ta không gắn những phán đoán về giá trị cho nó.
Khó có kinh nghiệm ở đó. Dĩ nhiên nếu chúng ta dùng đến sự bóp méo căn bản của tự ngã, chúng ta có thể tiếp tục
và nói rằng vì khó có kinh nghiệm ở đó, vì nó vô nghĩa như thế, nên nó là một
trong những kinh nghiệm phi thường và có giá trị nhất. Điều này sẽ chỉ là một
cách được khái niệm hóa của việc cố chứng thực rằng những gì bạn đang bị cuốn
hút vào là một sự vụ ghê gớm. Nó không
ghê gớm gì cả.
-Hỏi: Theo cách nào đó thì ý thức hài hước có liên
quan gì đến kinh nghiệm đốn ngộ, satori
không?
-Đáp: Chắc chắn là có. Có câu chuyện kể về một người vừa
cười vừa chết. Anh ta là một dân làng chất phác. Một hôm anh ta hỏi một vị thầy
về màu sắc của Phật A-di-đà. Theo truyền thống thì hình tượng có màu đỏ; nhưng
nghe thế nào đó mà anh ta lại nghĩ nhầm ra màu tro trong bếp lửa. Và điều này
đã ảnh hưởng toàn bộ việc tập thiền của anh ta; vì khi anh ta quán tưởng thì đó
là hình ảnh một Phật A-di-đà màu xám.
Cuối cùng khi người đàn ông đang hấp hối trên giường
bệnh, vì muốn biết chắc nên anh ta lại hỏi một vị thầy khác về màu sắc của Phật
A-di-đà. Vị thầy nói màu đỏ và người đàn ông đột nhiên bật cười lớn, “Tôi từng
nghĩ Ngài màu tro thế mà bây giờ thầy lại nói với tôi Ngài màu đỏ.” Anh ta bật
cười lớn và chết khi đang còn cười. Vì thế đó là vấn đề vượt qua một loại
nghiêm trọng nào đó.
Có nhiều chuyện kể về những người thật sự có thể chứng
ngộ khi bật cười òa – đó là sự nhận ra tính chất tương phản, tính chất châm
biếm của các hoàn cảnh cực đoan. Chẳng hạn như trường hợp của một ẩn sỹ có vị thí
chủ sống trong một ngôi làng cách đó nhiều dặm. Thí chủ này chăm lo đời sống
hàng ngày của ông, cung cấp thức ăn và các thứ cần dùng khác. Trong phần lớn
thời gian, vị thí chủ thường bảo vợ con mang các vật phẩm đi. Nhưng một hôm vị
ẩn sỹ hay tin đích thân người thí chủ sẽ đến thăm ông. Vì thế ông nghĩ,
"Ta phải gây ấn tượng đối với ông ấy. Ta phải chùi rửa và đánh bóng các đồ
thờ cúng, sắp đặt điện thờ ngăn nắp và dọn dẹp phòng ngủ gọn gàng." Thế là
ông lau chùi và sắp đặt mọi thứ cho đến khi điện thờ trông rất ấn tượng với các
chén nước và các cây đèn bơ cháy sáng. Và khi làm xong, ông ngồi xuống và bắt
đầu ngắm nhìn căn phòng rất thích thú. Mọi thứ trông rất gọn gàng, có vẻ không
tự nhiên lắm, và ông cũng thấy rằng điện thờ trông không tự nhiên. Bỗng dưng
ông ngạc nhiên nhận ra rằng mình đang làm một kẻ đạo đức giả. Thế rồi ông xuống
bếp bốc một nắm tro và rải khắp điện thờ cho đến khi căn phòng trở thành một
đống hỗn độn. Khi vị thí chủ đến, ông ta cực kỳ ấn tượng trước tính chất tự
nhiên, không gọn gàng ngăn nắp của căn phòng. Vị ẩn sỹ không tài nào nhịn được.
Ông phá lên cười, và nói, "Tôi đã cố làm cho bản thân tôi và căn phòng
trông thật ngay ngắn gọn gàng nhưng rồi tôi nghĩ có lẽ tôi nên để ông nhìn thấy
như thế này." Và thế là cả vị ẩn sỹ và người thí chủ đều phá lên cười. Đó
là giây phút tỉnh giác lớn lao cho cả hai người.
-Hỏi: Trong mỗi bài giảng ông thường mô tả một tình
thế dường như không thể trốn thoát, khi mà chúng ta đều bị sập bẫy; một tình
thế chúng ta đã bị mắc kẹt vào trong đó. Tôi chỉ muốn biết có phải ông từng ám
chỉ rằng có một cách để thoát ra?
-Đáp: Quý vị thấy, toàn bộ vấn đề là nếu chúng ta nói
đến một lối thoát ở vào bất kỳ trường hợp nào, thì như thế là chúng ta đang có
hứng thú đối với sự tưởng tượng, với giấc mơ trốn thoát, giải thoát, giác ngộ.
Chúng ta cần phải thực tế. Chúng ta phải khảo sát những gì ở đây, bây giờ, cái
tâm trí loạn thần của chúng ta. Một khi chúng ta hoàn toàn quen thuộc với các
khía cạnh tiêu cực của tình trạng hiện hữu của chúng ta thì tự động chúng ta sẽ
biết được "lối ra". Nhưng nếu chúng ta nói rằng việc đạt được mục
đích sẽ đẹp và vui thú như thế nào thì chúng ta trở nên cực kỳ chân thật và
lãng mạn; và cách tiếp cận này trở thành một chướng ngại.
Người ta phải thực tế. Nó giống như việc bạn phải gặp
bác sỹ vì bạn đang bệnh. Nếu bác sỹ có ý định chữa trị cho bạn thì trước hết ông
phải biết điều gì bất ổn đối với bạn, chứ không phải cái gì có thể tốt cho bạn;
làm thế thì không thiết thực. Nếu bạn kể cho bác sỹ nghe vì sao bạn bất ổn thì
đó là cách bạn thoát khỏi căn bệnh của bạn. Đây là lý do tại sao đức Phật dạy
Bốn Sự Thật Cao Thượng, lời dạy đầu tiên của Ngài. Chúng ta phải bắt đầu bằng việc
ý thức được sự đau đớn, duhkha, khổ đau. Rồi sau khi đã ý thức được khổ đau, ta
lại tiếp tục đi đến nguồn gốc của khổ đau và con đường thoát khỏi khổ đau và sự
giải thoát. Đức Phật đã không bắt đầu bằng lời dạy về vẻ đẹp của kinh nghiệm
giác ngộ.
-Hỏi: Theo các thể thức thông thường của sự đánh giá
và phán đoán, tôi thấy mình suy nghĩ rằng các lỗi lầm và chướng ngại được ông
mô tả trong các bài nói chuyện sau này có nội dung cao hơn các bài nói chuyện
trước đó. Điều này có đúng không?
-Đáp: Đúng như thế. Ngay cả sau khi ta đặt chân lên
con đường, như trong trường hợp của các bồ-tát, một khi bạn bắt đầu tỉnh thức,
bạn sẽ có khuynh hướng phân tích trạng thái tỉnh thức của bạn. Điều này liên quan
đến việc nhìn lại mình, phân tích, đánh giá, và tiếp tục như thế cho đến khi có
một cú đấm như trời giáng gọi là trạng thái định giống như kim cương
(vajra-like samadhi). Đây là trạng thái thiền định samadhi cuối cùng. Sự đạt
ngộ có tên "như kim cương" vì nó không biểu trưng bất kỳ sự vô nghĩa
nào; nó chặt đứt mọi trò chơi của chúng ta. Trong câu chuyện kể về cuộc đời đức
Phật chúng ta biết được những cám dỗ của Mara. Những cám dỗ này hết sức vi tế. Cám
dỗ đầu tiên là nỗi sợ hãi thân xác bị hủy hoại. Cám dỗ cuối cùng là sự quyến rũ
của những người con gái của Mara. Sự quyến rũ này, sự quyến rũ của khuynh hướng
duy vật tâm linh, thì hết sức mãnh liệt vì đó là sự quyến rũ của suy nghĩ rằng
"ta" đã thành tựu điều gì đó. Nếu chúng ta nghĩ chúng ta đã thành tựu
điều gì đó, chúng ta đã "làm được" điều gì đó, thì chúng ta đã bị
những người con gái của Mara quyến rũ, sự quyến rũ của khuynh hướng duy vật tâm
linh.
Chương 9: Phát Triển Tự Ngã
Chúng ta dự định
khảo sát con đường của Phật giáo từ đầu đến cuối, từ tâm của người sơ cơ đến
tâm của người chứng ngộ, vì thế tôi nghĩ tốt nhất chúng ta hãy bắt đầu lãnh vực
sắp được khai phá của mình bằng một cái gì đó cụ thể và thực tế. Thật ngu xuẩn
để tìm hiểu các đề tài cao hơn khi chúng ta chưa làm quen với điểm khởi đầu,
tức thể tính của tự ngã. Ở Tây tạng có câu tục ngữ nói rằng khi cái đầu chưa
được nung chín thì có lấy được cái lưỡi cũng chẳng ích gì. Bất cứ sự tu tập tâm
linh nào cũng cần có sự hiểu biết căn bản về điểm khởi đầu này; đó chính là
chất liệu chúng ta đang cần cho công việc của mình.
Nếu không biết
được chúng ta sẽ cần đến chất liệu gì cho công việc của mình thì có tìm hiểu
thế nào cũng trở thành vô ích; những suy đoán về mục tiêu chỉ là những ảo
tưởng. Những suy đoán này có thể khoác hình thức các ý tưởng và các mô tả cấp
cao về các kinh nghiệm tâm linh, nhưng chúng chỉ khai thác được các khía cạnh
yếu ớt hơn của thế tính con người, những mong đợi và ham muốn được thấy và nghe
cái gì đó rực rỡ, cái gì đó phi thường. Nếu chúng ta bắt đầu việc tìm hiểu của
chúng ta bằng những mơ mộng về các kinh nghiệm "giác ngộ", phi
thường, và đầy kịch tính thì chúng ta sẽ dựng lên các hy vọng và các định kiến,
để rồi sau đó khi chúng ta thật sự đang bước chân trên đường thì tâm trí chúng
ta sẽ đầy ắp những gì sẽ là hơn là
những gì đang là. Thật bất công và
tai hại cho những ai chỉ biết khai thác những điểm yếu, những mong chờ và những
mơ mộng của họ hơn là hiển bày điểm khởi đầu thật sự của những gì họ đang là.
Vì thế thật cần
thiết để bắt đầu với những gì chúng ta đang là và với lý do tại sao chúng ta
kiếm tìm. Nhìn chung, tất cả các truyền thống tôn giáo đều đề cập đến chất liệu
này, phát biểu nhiều cách khác nhau về alaya-vijnana (Tàng thức) hay tội lỗi nguyên thủy hay sự sa đọa của con người hay
nền tảng của tự ngã. Hầu hết các tôn giáo đề cập đến chất liệu này một cách khá
miệt thị, nhưng tôi không nghĩ đó lại là cái khủng khiếp và kinh động đến thế.
Chúng ta không phải hổ thẹn về những gì chúng ta đang là. Là chúng sinh hữu
tình chúng ta có những bối cảnh tuyệt vời. Có thể những bối cảnh này không phải
là cái gì đó giác ngộ hay an lạc hay thông thái đặc biệt; tuy nhiên chúng ta có
đất đai phì nhiêu đủ để canh tác, đủ để trồng bất cứ thứ gì trong đó. Vì thế
khi bàn đến chủ đề này chúng ta không lên án hay cố loại bỏ tâm-lý-tự-ngã của
chúng ta; chúng ta chỉ thừa nhận nó, nhìn nó như nó là. Thật vậy, hiểu biết về
tự ngã là nền tảng của Phật giáo. Vì thế chúng ta hãy nhìn xem tự ngã phát
triển như thế nào.
Về căn bản, có một
không gian rộng mở, nền tảng căn bản,
những gì chúng ta thật sự đang là. Trạng thái tâm căn bản nhất của chúng ta,
trước khi sản sinh ra tự ngã, là cái có sự rộng mở căn bản, sự tự do căn bản,
một phẩm tính mênh mông; và chúng ta có ngay bây giờ cũng như luôn luôn sự rộng
mở này. Lấy ví dụ cuộc sống và các thể thức suy tưởng hàng ngày của chúng ta.
Khi chúng ta nhìn thấy một vật, trong giây phút đầu tiên là sự tri nhận đột
ngột, một sự tri nhận không mang tính lý luận hay khái niệm hóa nào cả; chúng
ta chỉ tri nhận vật đó trên một nền tảng rộng mở. Rồi lập tức chúng ta trở nên
hoảng hốt và bắt đầu chạy quanh, cố thêm vào cái gì đó, hoặc cố tìm một cái
tên, hoặc cố tìm một ngăn kéo để sắp đặt và phân loại vật đó. Dần dần mọi thứ
phát triển từ đó.
Sự phát triển này
không mang dạng một thực thể kiên cố. Đúng ra nó là một ảo tưởng, một sự tin
tưởng sai lạc vào "bản ngã" hay "tự ngã". Một đầu óc mê mờ
thường có khuynh hướng tự xem nó như một vật thể kiên cố, vận động không ngừng
nghỉ; thế nhưng, đó chỉ là một tập hợp các khuynh hướng, các sự kiện. Trong
thuật ngữ Phật giáo tập hợp này được đề cập đến như Năm Uẩn (Five Skandhas) hay Năm Đống. Vì thế có
lẽ chúng ta có thể xem xét kỹ toàn bộ sự phát triển của Năm Uẩn này.
Điểm khởi đầu là
có một không gian mở, không thuộc bất cứ người nào. Luôn có sự thông minh
nguyên thủy kết hợp với không gian và sự rộng mở. Vidya trong tiếng Phạn có
nghĩa là "sự thông minh"; đó là sự chính xác, sự sắc bén, sắc bén với
không gian, sắc bén với khoảng không dùng để sắp đặt đồ vật, hoán chuyển đồ
vật. Giống như một sảnh đường rộng mênh mông, có chỗ để nhảy múa, và không sợ
làm đổ hay vấp phải đồ đạc, bởi vì có một không gian hoàn toàn rộng mở. Chúng
ta chính là không gian này, chúng ta
trở thành một với nó, với vidya, sự sáng suốt và rộng mở.
Nhưng nếu chúng ta
là không gian này ở mọi thời điểm thì sự mê mờ đã sinh khởi từ đâu, không gian
rộng mở đã đi đâu, chuyện gì đã xảy ra? Sự thật là chẳng có gì xảy ra cả. Chúng
ta chỉ trở nên quá khích động trong không gian đó. Vì nó mênh mông nên nó mang
lại cảm hứng nhảy múa cho chúng ta; nhưng việc nhảy múa của chúng ta đã trở nên
khá khích động, chúng ta bắt đầu xoay người nhiều hơn cần thiết để hiển lộ không
gian. Vào điểm này chúng ta đã trở nên ý thức về bản thân mình, ý thức rằng
"ta" đang nhảy múa trong không gian.
Vào thời điểm như
thế, không gian không còn là không gian như trước nữa. Nó trở thành cứng ngắc.
Thay vì làm một với không gian, chúng ta lại cảm thấy không gian cứng ngắc như
một vật thể rắn, tách rời. Nhị nguyên có nghĩa là "không gian và
tôi", hơn là trở thành một trọn vẹn với không gian. Đây là sự sinh khởi
của "cái khác", của "sắc tướng".
Lúc đó một loại
hôn mê xảy ra, theo nghĩa chúng ta quên mất những gì chúng ta đã làm. Có một sự
dừng lại, một sự ngưng đọng đột ngột; và chúng ta nhìn quanh và "khám
phá" ra không gian rắn, làm như chúng ta chưa hề làm bất cứ điều gì trước
đây, làm như không phải chúng ta đã tạo ra sự cứng ngắc đó. Có một khe hỡ. Sau
khi đã tạo ra không gian cứng ngắc đó, chúng ta sẽ bị nó lấn át và bắt đầu mất
hút ở trong đó. Có sự mê muội, và rồi đột nhiên lại có sự tỉnh táo.
Khi chúng ta tỉnh
táo, chúng ta không chịu xem không gian là sự rộng mở, không chịu nhìn nhận
tính chất trôi chảy và thông thoáng của nó. Chúng ta hoàn toàn không hay biết
điều đó. Đây gọi là avidya. A có nghĩa là "phủ định", vidya có nghĩa là "sự thông
minh", vì thế avidya là "sự không thông minh." Bởi vì sự thông
minh cực độ này đã chuyển thành sự nhìn thấy không gian rắn chắc; bởi vì sự
thông minh sáng rực có tính chất sắc bén, chính xác và trôi chảy này đã trở
thành tù đọng, vì thế nó gọi là avidya, "vô minh". Chúng ta cố tình
lờ đi. Chúng ta không vừa lòng với việc chỉ nhảy múa trong không gian mà muốn
có người cùng nhảy với mình, và vì thế chúng ta chọn không gian làm người bạn
nhảy. Nếu bạn chọn không gian làm người nhảy cùng thì dĩ nhiên bạn muốn nó cùng
nhảy với bạn. Để có được nó làm người bạn nhảy, bạn phải làm cho nó rắn lại và
quên đi tính chất trôi chảy, mênh mông của nó. Đó là avidya, sự ngu dốt, không
nhận ra sự thông minh. Đó là cực điểm của Uẩn thứ nhất, sự tạo ra Sắc-Vô minh (Form-Ignorance).
Thật ra, loại uẩn
này, loại uẩn Sắc-Vô minh, có ba phương diện hay giai tầng khác nhau, và chúng
ta có thể khảo sát chúng qua việc dùng một ẩn dụ khác. Giả sử như vào lúc đầu
có một bình nguyên rộng mênh mông, trong đó không có núi non hay cây cối gì cả,
một vùng đất hoàn toàn rộng mở, một sa mạc đơn thuần không có bất kỳ tính chất
đặc biệt nào. Đó là cách chúng ta đang là, những gì chúng ta đang là. Chúng ta
rất đơn thuần và nguyên sơ. Thế rồi có một mặt trời chiếu sáng, một mặt trăng
chiếu sáng, và sẽ có các ngọn đèn và màu sắc, sa mạc trở thành một tấm vải dệt.
Sẽ có một cảm nhận nào đó về năng lượng đang nô đùa giữa trời và đất. Điều này
cứ diễn ra mãi như thế.
Thế rồi, kỳ lạ
thay, bỗng nhiên có ai đó chú ý đến tất cả điều này. Nó giống như một trong
những hạt cát đã thò cổ ra và bắt đầu nhìn quanh. Chúng ta là hạt cát đó, đạt
đến kết luận về sự tách rời của chúng ta. Đây là sự "Sinh khởi Vô
minh" ở giai đoạn đầu tiên, một loại phản ứng hóa học. Sự phân hai đã bắt
đầu.
Giai đoạn thứ hai
của Sắc-Vô minh được gọi là "Vô minh nội khởi." Sau khi để ý thấy mình
được tách rời ra thì ta sẽ có cảm giác là ta đã luôn luôn như thế. Đó là sự
lúng túng, là loại bản năng hướng đến sự ý thức về ngã. Đó cũng là cái cớ để ta
giữ nguyên trạng thái tách rời, một hạt cát riêng rẽ. Đó là một kiểu gây hấn
của vô minh, mặc dù không hẳn là gây hấn theo nghĩa sân hận; nó không phát
triển đến mức độ như thế. Đúng hơn, đó là sự gây hấn theo nghĩa ta cảm thấy
lúng túng, mất cân bằng, và vì thế ta cố gắng gia cố đất đứng của mình, tạo một
nơi trú ẩn cho mình. Đó là thái độ cho thấy ta là một cá thể tách biệt và mê mờ,
và đó là tất cả những gì nó có ở đó. Ta đã tự nhận ta tách rời khỏi cảnh quang
căn bản của không gian và sự rộng mở.
Kiểu vô minh thứ
ba là "Vô minh tự quán", quán sát chính bản thân mình. Có một cảm
giác nhìn thấy chính mình như một đối tượng ngoại tại, dẫn đến khái niệm đầu
tiên về "cái khác". Ta đang bắt đầu có mối liên hệ với cái gọi là thế
giới "ngoại tại". Đây là lý do tại sao ba giai đoạn vô minh này tạo
thành uẩn Sắc-Vô minh; ta đang bắt đầu tạo ra thế giới các sắc pháp.
Khi chúng ta nói
về "vô minh", chúng ta hoàn toàn không có ý chỉ cho sự ngu muội. Ở
mặt nào đó, vô minh thì rất thông minh, nhưng là loại vô minh hoàn toàn hai
mặt. Có nghĩa là người ta chỉ phản ứng với những dự phóng của mình hơn là nhận biết
những gì đang là. Không có bất kỳ tình thế "tự tại" nào cả, vì ta
đang lờ đi những gì ta luôn đang là. Đó là định nghĩa căn bản về vô minh.
Sự phát triển kế
tiếp là việc dựng lên một cơ cấu phòng thủ để bảo vệ vô minh của chúng ta. Cơ
cấu phòng vệ này là Cảm thọ, Uẩn thứ hai. Vì đã quên đi không gian rộng mở nên
kế tiếp chúng ta muốn cảm nhận các tính chất của không gian rắn để mang lại sự
hoàn thành trọn vẹn cho tính chất đeo bám mà chúng ta đang phát triển. Dĩ nhiên
không gian không có nghĩa là không gian trần trụi vì nó có chứa màu sắc và năng
lượng. Có những sự trình hiện bao la và ngoạn mục của màu sắc và năng lượng,
đẹp đẽ và tạo ấn tượng mạnh. Thế nhưng chúng ta đã hoàn toàn không hay biết
đến. Thay vì thế, chỉ có một phiên bản cứng nhắc của màu sắc đó; và màu sắc trở
thành màu sắc bị khống chế, và năng lượng trở thành năng lượng bị khống chế,
bởi vì chúng ta đã làm cứng toàn bộ không gian và biến nó thành "cái
khác". Vì thế chúng ta bắt đầu vươn ra và cảm nhận các tính chất của
"cái khác". Bằng cách làm này chúng ta tái khẳng định với chính mình
rằng chúng ta hiện hữu. "Nếu tôi có thể cảm nhận cái đó ở đó, vậy thì chắc
chắn tôi phải có ở đó."
Bất cứ khi nào
điều gì đó xảy ra, ta đều vươn ra để cảm thấy hoàn cảnh đó có hấp dẫn, đe dọa
hay bình thường. Bất cứ khi nào có sự tách rời đột ngột, có cảm giác không biết
được liên hệ giữa "cái kia" với "cái này" thì chúng ta có
khuynh hướng tìm kiếm đất đứng của mình. Đây là cơ cấu cảm thọ cực kỳ hiệu quả
được chúng ta bắt đầu dựng nên, Uẩn thứ hai.
Cơ cấu kế tiếp
nhằm thiết lập thêm tự ngã là Uẩn thứ ba, Tri nhận-Xung lực (Perception-Impulse).
Chúng ta bắt đầu bị cuốn hút bởi chính sự tạo tác của chúng ta, những màu sắc
cố định, những năng lượng cố định. Chúng ta muốn kết nối với chúng, và vì thế
chúng ta bắt đầu tìm hiểu dần sự tạo tác của mình.
Để tìm hiểu có
hiệu quả, phải có một loại hệ thống điều khiển, một thiết bị điều khiển cơ cấu
cảm thọ. Cảm thọ truyền đạt thông tin của nó đến bảng điều khiển trung tâm, tức
hoạt động tri nhận. Dựa theo thông tin đó, chúng ta đưa ra các phán đoán, chúng
ta phản ứng lại. Chúng ta phản ứng có lợi, hay bất lợi, hay hời hợt đều tự động
được bộ máy quan liêu của cảm thọ và tri nhận quyết định. Nếu chúng ta cảm nhận
được hoàn cảnh và thấy bị đe dọa, thì chúng ta sẽ đẩy nó ra xa chúng ta. Nếu
thấy hấp dẫn, chúng ta sẽ kéo nó đến gần. Nếu thấy nó bình thường thì chúng ta
cũng sẽ thờ ơ. Đây là ba loại xung lực: tham, sân, và si. Như vậy, sự tri nhận
chỉ cho việc thâu nhận thông tin từ thế giới bên ngoài, và xung lực chỉ cho
phản ứng của chúng ta đối với thông tin đó.
Phát triển kế tiếp
là Uẩn thứ tư, Khái niệm (Concept). Tri nhận-Xung lực là phản ứng tự động đối
với cảm nhận thuộc trực giác. Tuy nhiên, loại phản ứng tự động này không thật
đủ cho sự phòng thủ nhằm bảo vệ vô minh của ta và bảo đảm an toàn cho ta. Để
thật sự phòng vệ và tự đánh lừa một cách trọn vẹn và đúng đắn, ta cần đến tri
thức, khả năng đặt tên và phân loại sự vật. Như vậy chúng ta dán nhãn các sự
vật và sự việc là "tốt", "xấu", "đẹp đẽ", "xấu
xí", vân vân, tùy theo sự thôi thúc chúng ta thấy phù hợp với chúng.
Như thế cấu trúc
của tự ngã dần dần trở nên ngày càng nặng nề hơn, ngày càng mạnh mẽ hơn. Cho
tới điểm này, sự phát triển của tự ngã chỉ đơn thuần là một tiến trình hành
động và phản ứng. Nhưng từ giờ trở đi tự ngã dần dần phát triển ra ngoài bản
năng khỉ vượn và trở nên lão luyện hơn. Chúng ta bắt đầu trải qua sự suy diễn
thuộc về tri thức, xác nhận hay diễn dịch tự thân, đưa chúng ta vào những hoàn
cảnh hợp luận lý, mang tính diễn dịch. Bản chất nền tảng của tri thức thì hoàn
toàn thuộc về luận lý. Hiển nhiên sẽ có khuynh hướng vận hành theo chiều hướng
tích cực: xác nhận kinh nghiệm của chúng ta, diễn dịch sự yếu đuối thành sức
mạnh, đan dệt thành một lý luận về sự an toàn, chứng thực vô minh của chúng ta.
Theo nghĩa nào đó,
có thể nói rằng sự thông minh nguyên thủy đang vận hành vào mọi lúc; tuy nhiên
nó đang bị lợi dụng bởi sự cứng nhắc mang tính nhị nguyên, bởi vô minh. Ở những
giai đoạn đầu của việc phát triển tự ngã, sự thông minh này vận hành như một sự
sắc bén của cảm thọ, một sự sắc bén mang tính trực giác. Về sau nó vận hành
dưới dạng tri thức. Thật sự dường như chẳng hề có một sự vật nào là tự ngã;
chẳng hề có cái gọi là "tôi là". Đó là một sự tích tụ nhiều chất
liệu. Đó là một "tác phẩm nghệ thuật sáng giá", một sản phẩm của tri
thức khi nó lên tiếng, "Chúng ta hãy cho nó một cái tên, chúng ta hãy gọi
nó là cái gì đó, chúng ta hãy gọi nó là 'Tôi là'," câu này rất khôn ngoan.
"Tôi" là sản phẩm của tri thức, là nhãn hiệu nhằm kết hợp vào một
tổng thể sự phát triển vô tổ chức và tán loạn của tự ngã.
Giai đoạn cuối của
sự phát triển tự ngã là Uẩn thứ năm, Thức (Consciousness). Ở mức độ này một sự
pha trộn xảy ra: sự thông minh thuộc về trực giác của Uẩn thứ hai, năng lượng
của Uẩn thứ ba, khả năng suy lý của Uẩn thứ tư kết hợp cho ra các tư tưởng và
cảm xúc. Như vậy, ở mức độ của Uẩn thứ năm, chúng ta tìm thấy Sáu Cảnh giới
(Six Realms) cũng như các thể thức phi luận lý và buông lung của loạn tưởng.
Đây là bức tranh
hoàn hảo của tự ngã. Chính trong tình trạng này mà tất cả chúng ta đã đến để
học hỏi tâm lý học và thiền định Phật giáo.
Văn học Phật giáo
có một ẩn dụ thường được dùng để mô tả toàn bộ tiến trình này, sự hình thành và
phát triển tự ngã. Ẩn dụ nói về một con khỉ bị khóa kín trong một căn nhà
trống, một căn nhà có năm cửa sổ, biểu tượng cho năm giác quan. Con khỉ này rất
tò mò. Nó thò đầu ra khỏi mỗi chiếc cửa sổ và cứ nhảy lên nhảy xuống không
ngừng. Nó là con khỉ bị giam trong căn nhà trống. Đó là một ngôi nhà kiên cố,
còn hơn cả khu rừng già nơi nó đã nhảy và đánh đu, hơn cả cây cối nơi nó có thể
nghe tiếng gió thổi và tiếng xào xạc của lá cành. Tất cả những thứ này đã trở
nên hoàn toàn kiên cố. Thật vậy, tự thân khu rừng đã trở thành ngôi nhà kiên cố
của nó, ngục tù của nó. Thay vì ngồi trên cây, con khỉ tò mò này đã bị nhốt kín
bởi một thế giới rắn, dường như một sự vật trôi chảy, một thác nước đẹp và
nhiều ấn tượng đã bỗng nhiên đông cứng lại. Căn nhà đông cứng này, được làm
bằng các màu sắc và năng lượng đông cứng, thì hoàn toàn bất động. Đó hình như
là điểm mà ở đó thời gian bắt đầu như quá khứ, tương lai và hiện tại. Giòng
chảy của sự vật trở thành thời gian rắn, có thể chạm vào được, một ý tưởng cứng
ngắc về thời gian.
Con khỉ tò mò tỉnh
giấc khỏi cơn mê, nhưng nó không hoàn toàn tỉnh táo. Nó tỉnh giấc để thấy mình
mắc kẹt bên trong một căn nhà khép kín, kiên cố với đúng năm cái cửa sổ. Nó trở
nên buồn chán, làm như đang bị nhốt trong một sở thú đàng sau chấn song sắt, và
nó cố gắng khám phá các chấn song này bằng cách leo lên leo xuống. Việc nó bị
bắt thì không có gì quan trọng; thế nhưng ý tưởng bị bắt lại được phóng đại lên
một ngàn lần do nó bị cuốn hút vào đó. Nếu người ta bị mê hoặc thì cảm giác bị
giam giữ ngày càng trở nên sinh động hơn, sắc bén hơn, vì ta bắt đầu tìm hiểu
về sự giam giữ của chính mình. Nó bị sự mê hoặc của chính nó khống chế. Dĩ
nhiên vào lúc đầu nó đã bị hôn mê đột ngột, và sự hôn mê này đã xác nhận niềm
tin của nó vào một thế giới rắn chắc. Nhưng giờ đây sau khi đã xem sự rắn chắc
này như một điều hiển nhiên thì nó đã bị sập bẫy do sự cuốn hút của nó vào đó.
Dĩ nhiên không
phải lúc nào con khỉ tò mò này cũng tìm tòi, khám phá. Nó bắt đầu trở nên khích
động, bắt đầu cảm thấy rằng có cái gì đó lập đi lập lại và nhàm chán, và nó bắt
đầu trở nên loạn thần. Khao khát được nô đùa, nó cố cảm nhận và đánh giá kết
cấu của bức tường, cố đoan chắc rằng vẻ rắn chắc bên ngoài này thì thật sự rắn
chắc. Và rồi, khi khẳng định được không gian thì rắn chắc, con khỉ bắt đầu liên
hệ với không gian bằng cách đeo bám, khước từ hay tảng lờ đi. Nếu nó cố nắm bắt
không gian để sở hữu làm kinh nghiệm của riêng nó, khám phá của riêng nó, hiểu
biết của riêng nó, thì đấy là tham. Nếu không gian giống như một nhà tù đối với
nó để nó phải cố đấm đá tìm lối thoát ra, chiến đấu ngày càng vất vả hơn, thì
đó là sân. Sân không chỉ là tinh thần phá hoại mà còn là một cảm giác phòng vệ,
phòng vệ chống lại nỗi sợ bị giam giữ. Con khỉ không nhất thiết phải cảm nhận về
một đối thủ hay kẻ thu đang đến gần; nó chỉ muốn thoát khỏi nơi giam giữ nó.
Cuối cùng có lẽ
con khỉ cố quên đi chuyện nó bị cầm tù hay có cái gì đó hấp dẫn trong môi
trường của nó. Nó giả câm giả điếc và vì thế trở nên lạnh lùng và lười biếng
đối với những gì đang xảy ra chung quanh; đó là si.
Trở lại một tí,
bạn có thể nói rằng con khỉ sinh vào ngôi nhà của nó khi nó vừa tỉnh thức khỏi
cơn mê. Nó không biết đã vào đến cái nhà tù này bằng cách nào, vì thế nó tưởng
rằng nó đã luôn ở đó, quên hẳn chuyện chính nó đã gia cố không gian thành bốn
bức tường. Rồi nó cảm nhận được cấu trúc của các bức tường; đó là Uẩn thứ hai,
Cảm thọ. Sau đó nó nối kết với căn nhà qua tham, sân, si; đó là Uẩn thứ ba. Rồi
sau khi đã phát triển ba cách nối kết với căn nhà này, con khỉ bắt đầu đặt tên
và xếp loại: "Đây là khung cửa sổ. Góc này thật thoải mái. Bức tường kia
làm ta sợ, và không tốt." Nó phát triển một khung khái niệm, rồi theo đó
mà dán nhãn, phân loại và định giá ngôi nhà của nó, thế giới của nó, tùy thuộc
tâm trạng nó muốn, nó ghét hay nó thấy hờ hững. Đây là Uẩn thứ tư, Hành
(Concept).
Sự phát triển của
con khỉ qua Uẩn thứ tư tương đối hợp lý và có thể biết trước. Nhưng thể thức
phát triển này bắt đầu gãy đổ khi nó bước vào Uẩn thứ năm, Thức
(Consciousness). Thể thức suy tưởng trở nên thất thường và không biết trước; và
con khỉ bắt đầu ảo tưởng, bắt đầu mơ mộng.
Khi chúng ta nói
"ảo tưởng" hay "mơ mộng", điều này có nghĩa rằng chúng ta
gắn các giá trị vào các sự vật và sự vụ mà chúng không cần thiết phải có. Chúng
ta có các định kiến rõ ràng về cách thức chúng đang là và nên là. Đây là sự dự
phóng: chúng ta dự phóng phiên bản các sự vật lên những gì đang là ở đó. Như
thế chúng ta trở nên chìm đắm hoàn toàn vào một thế giới của những tạo tác
riêng của chúng ta, một thế giới các giá trị và định kiến xung đột. Hoang
tưởng, theo nghĩa này, là một sự diễn dịch lầm lạc các sự vật và sự vụ, đọc ra
từ thế giới hiện tượng các ý nghĩa mà nó vốn không có.
Đây là những gì
con khỉ bắt đầu kinh nghiệm được ở giai đoạn Uẩn thứ năm. Sau khi cố thoát ra
và đã thất bại, nó cảm thấy buồn chán, vô vọng, và vì thế nó bắt đầu trở nên
điên loạn hoàn toàn. Vì nó quá mệt mỏi với sự chiến đấu, nó thấy rất hấp dẫn
khi được nghỉ ngơi và để mặc cho đầu óc lang thang và loạn tưởng. Đây là việc
tạo ra Sáu Thế giới (Six Loka) hay Sáu Cảnh giới (Six Realms). Có nhiều bàn
luận trong truyền thống Phật giáo về chúng sinh ở địa ngục, chúng sinh ở cõi
trời, thế giới con người, cảnh giới loài vật, và các trạng thái hiện hữu tâm lý
khác. Có nhiều loại dự phóng khác nhau, những thế giới trong mơ mà chúng ta tạo
ra cho chính chúng ta.
Sau khi đã chiến
đấu và không thể trốn thoát, sau khi đã kinh nghiệm khổ đau và nỗi sợ bị giam
cầm, con khỉ bắt đầu mong ước một điều gì đó tốt đẹp và hấp dẫn. Vì thế cảnh
giới đầu tiên nó bắt đầu kiến lập trong ảo tưởng là thế giới chư Thiên (Deva
Loka), Cảnh giới Thần Linh (the God Realm), "thiên đường" (heaven),
một nơi chốn đầy những thứ lộng lẫy, đẹp đẽ. Con khỉ mơ được tản bộ ra khỏi
nhà, bước đi trên những cánh đồng sum sê, ăn trái chín, ngồi đong đưa trên cây,
sống một cuộc đời tự do và thoải mái.
Rồi nó cũng bắt
đầu dựng lên trong ảo tưởng cảnh giới A-tu-la (Asura Realm), hay cảnh giới của
các thần linh đố kỵ. Sau khi đã kinh nghiệm được giấc mơ về cõi trời, con khỉ
muốn phòng vệ và gìn giữ niềm hoan lạc và hạnh phúc lớn lao của nó. Nó đau khổ
vì hoang tưởng, lo sợ kẻ khác có thể cố lấy đi kho tàng của nó, và vì thế nó
bắt đầu cảm thấy đố kỵ. Nó tự hào về mình, thưởng thức việc nó đã tạo ra cảnh
giới thần linh, và điều này đã dẫn nó đến việc ganh tỵ với Cảnh Giới A-tu-la.
Rồi nó cũng nhận
thức được tính chất trần tục của những kinh nghiệm này. Thay vì chỉ chọn lựa
giữa sự đố kỵ và kiêu hãnh, nó bắt đầu thấy thoải mái, quen thuộc với "thế
giới loài người", "thế giới địa cầu". Đó là thế giới của một
cuộc sống đều đặn, làm những việc bình thường, theo một cách phàm tục. Đây là
Cảnh giới Loài người.
Nhưng rồi con khỉ
cũng ý thức rằng có cái gì đó hơi buồn tẻ, cái gì đó không hoàn toàn trôi chảy.
Điều này xảy ra vì khi nó tiến từ Cảnh giới Thiên thần đến Cảnh giới Thần linh
đố kỵ đến Cảnh giới Loài người và các ảo tưởng của nó càng ngày càng trở nên
chắc nịch, thì toàn bộ sự phát triển này bắt đầu cảm thấy khá nặng nề và đần
độn. Vào lúc đó nó sinh vào Cảnh giới Súc sinh. Nó thích bò, rống hoặc sủa hơn
là hưởng thụ niềm vui của sự kiêu hãnh hay ganh tỵ. Đây là sự đơn giản của thế
giới loài vật.
Rồi tiến trình
được làm mạnh thêm, và con khỉ bắt đầu kinh nghiệm một cảm giác vô vọng của cái
đói, vì thật sự nó không muốn đọa lạc vào các cảnh giới thấp hơn. Nó muốn trở
lại các cảnh giới hoan lạc của thần linh; vì thế nó bắt đầu cảm thấy đói và
khát, một cảm giác ức niệm mãnh liệt đối với những gì nó nhớ đã có lần trải
qua. Đây là Cảnh giới Preta hay Quỷ đói (Realm of the Hungry Ghosts).
Và rồi bỗng nhiên
niềm tin bị đánh mất và con khỉ bắt đầu nghi ngờ chính mình và thế giới, bắt
đầu phản ứng một cách mãnh liệt. Tất cả điều này là một cơn ác mộng khủng khiếp.
Nó ý thức rằng một cơn ác mộng như thế không thể nào có thực và nó bắt đầu oán
hận bản thân đã tạo ra mọi chuyện kinh hoàng này. Đây là giấc mơ về Cảnh giới
Địa ngục (the Hell Realm), cảnh giới cuối cùng của sáu cảnh giới.
Trong suốt toàn bộ
sự phát triển của Sáu Cảnh giới, con khỉ đã trải qua các tư tưởng, ý tưởng, ảo
tưởng rời rạc và trọn vẹn các thể thức suy tưởng. Lên đến mức độ của Uẩn thứ
năm, quá trình tiến hóa tâm lý của nó đã trở nên đều đặn và có thể biết trước.
Từ Uẩn đầu tiên, mỗi sự phát triển tiếp nối đã sinh khởi có hệ thống, giống như
những lớp ngói trên mái. Nhưng bây giờ trạng thái tâm của con khỉ trở nên rất
méo mó và phiền toái khi mà trờ chơi ghép hình tâm linh này đột nhiên bộc phát
và các thể thức suy tưởng của nó trở nên thất thường và không thể báo trước. Đây
hình như là trạng thái tâm của chúng ta khi chúng ta tiếp cận các giáo pháp và
thiền tập. Đây là nơi chúng ta phải khởi đầu việc tu tập của mình.
Tôi nghĩ rằng thật
quan trọng để bàn về nền tảng của con đường -- tự ngã, sự mơ hồ của chúng ta --
trước khi chúng ta nói về giải thoát và tự do. Nếu tôi chỉ bàn đến kinh nghiệm
giải thoát và tự do, điều đó sẽ rất nguy hiểm. Đây là lý do tại sao chúng ta
bắt đầu xem xét sự phát triển của tự ngã. Nó là một loại chân dung tâm lý học
về các trạng thái tâm của chúng ta. Tôi e rằng buổi nói chuyện hôm nay chẳng
lấy gì làm hay ho, thế nhưng chúng ta phải đối mặt với những sự thật này. Điều
đó dường như là tiến trình hoạt động trên con đường Đạo.
Hỏi: Ông làm ơn
nói thêm về điều ông ám chỉ qua từ "hôn mê"?
Đáp: Chẳng có gì
sâu xa cho lắm. Ý nghĩa chỉ là ở vào mức độ của Uẩn đầu tiên, chúng ta đã làm
việc rất vất vả khi cố gắng làm cho không gian trở nên rắn chắc. Chúng ta đã
làm việc khổ nhọc và gấp gáp đến độ sự thông minh đột nhiên ngã quỵ. Có thể nói
đây là một loại kinh nghiệm phản-satori, phản ngộ, kinh nghiệm của vô minh. Bạn
đột nhiên thiếp đi vì đã làm việc quá vất vả. Đây là cái gì đó bạn đã thật sự
thành tựu, một tuyệt tác, tất cả sự cứng ngắc này. Và sau khi đã thành tựu trọn
vẹn, thì đột nhiên bạn bị nó khống chế. Đó là một loại thiền thuộc dạng đó, một
loại phản-samadhi.
Hỏi: Ông có nghĩ
rằng người ta phải ý thức về cái chết để thực sự được sống?
Đáp: Tôi không
nghĩ bạn phải ý thức đặc biệt về cái chết, theo nghĩa phân tích nó, mà bạn chỉ
nhìn thấy những gì bạn đang là. Thường thì chúng ta có khuynh hướng tìm kiếm
khía cạnh tích cực, vẻ đẹp của tâm linh, và bỏ quên chúng ta như chúng ta đang
là. Đây là nguy cơ to lớn nhất. Nếu chúng ta nhập vào việc tự phân tích thì sự
tu tập tâm linh của chúng ta đang cố tìm ra một phân tích tối hậu nào đó, một
sự tự dối mình tối hậu nào đó. Sự thông minh của tự ngã thì vô cùng tài hoa. Nó
có thể bóp méo bất cứ điều gì. Nếu chúng ta chấp trước các ý tưởng về tâm linh,
về sự tự phân tích hay sự siêu việt tự ngã, thì ngay lập tức tự ngã sẽ nắm lấy
chúng và biến chúng thành sự tự lừa dối.
Hỏi: Khi con khỉ
bắt đầu dựng lên các ảo tưởng, thì đó có phải là cái nó đã biết trước không? Ảo
tưởng xuất phát từ đâu?
Hỏi: Đó là một
loại bản năng, bản năng thứ hai, bản năng khỉ vượn mà tất cả chúng ta đều có.
Nếu có khổ thì ta sẽ dựng lên ảo tưởng về lạc để đối lại. Có sự cấp thiết phải
phòng vệ tự thân, xây dựng lãnh thổ của mình.
Hỏi: Chỉ được
trang bị mức độ ý thức chúng ta đang có, chẳng phải chúng ta không buộc phải
chiến đấu và tranh đấu một cách vô vọng ở mức độ này trừ phi chúng ta có thể
trở lại không gian mà ông đã mô tả?
Đáp: Dĩ nhiên
chúng ta sẽ chiến đấu vào mọi lúc, không có kết thúc. Chúng ta có thể nói
chuyện mãi mãi về chuỗi chiến đấu chúng ta sẽ hứng lấy. Không có câu trả lời
nào khác, trừ điều như bạn nói, đó là cố gắng tìm lại cái không gian nguyên
thủy. Nếu không chúng ta sẽ lún sâu vào thái độ tâm lý về cái này đối nghịch với cái
kia; đó là một chướng ngại. Chúng ta luôn luôn chiến đấu với một đối thủ.
Không bao giờ có một khoảnh khắc từ bỏ chiến đấu. Vấn đề là nhị nguyên, là cuộc
chiến qua cái Tôi và đối thủ của nó.
Thiền tập là một
phương cách làm việc hoàn toàn khác. Ta phải thay đổi toàn bộ thái độ và phương
cách điều động cuộc sống của ta. Ta phải thay đổi mọi chính sách của ta, có thể
nói như vậy. Điều này có thể rất đau dớn. Đột nhiên ta bắt đầu ý thức,
"Nếu ta không chiến đấu, ta sẽ cư xử với kẻ thù của ta như thế nào? Đối
với ta, không đánh nhau càng tốt, nhưng còn họ thì sao? Họ vẫn sẽ còn ở
đó." Đó là điều thú vị.
Hỏi: Nhìn thấy bức
tường và nhận ra rằng ông ở đó và không đi xa hơn -- đây hình như là một vị trí
rất nguy hiểm.
Đáp: Chính xác là
thế; nó không nguy hiểm. Có thể lúc đó bạn sẽ đau khổ khi ý thức rằng bức tường
thì kiên cố và bạn bị kẹt trong đó, nhưng đó là điều thú vị.
Hỏi: Thế nhưng
chẳng phải ông vừa nói rằng chính bản năng chúng ta muốn trở lại trạng thái
khác, trở lại không gian rộng mở sao?
Đáp: Dĩ nhiên;
nhưng con khỉ này sẽ không chịu để cho bản thân nó chỉ là như thế. Nó tiếp tục
chiến đấu, hoặc là nó bị cuốn vào ảo tưởng. Nó không khi nào dừng lại, không
bao giờ cho phép nó thực thụ cảm nhận bất cứ điều gì một cách đúng đắn. Đó là
vấn đề. Đó là lý do tại sao chỉ việc dừng lại, chỉ chừa lại một khe hỡ, là bước
đầu tiên trong thiền tập.
Hỏi: Giả sử ông có
một chướng ngại vật, một sự câu thúc, và ông biết rất rõ điều này. Sự câu thúc
này có biến mất khi ông ý thức rất rõ về nó không?
Đáp: Toàn bộ vấn
đề là chúng ta không được phác họa cách thức chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng
khó xử như thế nào, mà ngay lúc này chúng ta phải suy nghĩ về tất cả những căn
phòng giam chúng ta đang ở trong đó. Đây là bước học hỏi đầu tiên. Chúng ta
phải thật sự nhận chân chính chúng ta và cảm nhận tự thân một cách đúng đắn.
Điều này sẽ cung cấp nguồn cảm hứng cho chúng ta học hỏi tiếp. Tốt nhất là
chúng ta chưa nên nói về việc được giải thoát.
Hỏi: Có phải ông
muốn nói rằng những căn phòng giam này là sản phẩm thêu dệt của tri thức?
Đáp: Cường độ của
sự thông minh nguyên thủy kích khởi chúng ta mọi lúc. Vì thế tất cả những hoạt
động của con khỉ đều không được xem như cái gì đó chúng ta nên trốn chạy mà là
một sản phẩm của sự thông minh nguyên thủy. Càng cố gắng chiến đấu, chúng ta sẽ
càng khám phá ra những bức tường thì thật sự kiên cố. Chúng ta càng đổ nhiều
năng lượng vào cuộc chiến đấu, chúng ta sẽ làm những bức tường càng mạnh thêm,
vì chúng cần đến sự chú ý của chúng ta để củng cố chúng. Bất cứ khi nào chúng
ta để tâm nhiều hơn đến các bức tường thì chúng ta bắt đầu cảm nhận được sự vô
vọng của việc trốn thoát.
Hỏi: Con khỉ tri
nhận được gì khi nó nhìn qua năm cửa sổ của ngôi nhà?
Đáp: À, nó nhận
biết đông, tây, nam, bắc.
Hỏi: Chúng trông
như thế nào đối với nó?
Đáp: Một thế giới
vuông.
Hỏi: Bên ngoài
ngôi nhà thì sao?
Đáp: À, một thế
giới vuông, vì nó nhìn qua các cửa sổ.
Hỏi: Nó không thấy
bất cứ cái gì đàng xa sao?
Đáp: Nó có thấy,
nhưng đó cũng là một hình ảnh vuông, vì nó giống như treo một bức tranh trên
tường, có phải không?
Hỏi: Chuyện gì sẽ
xảy ra cho con khỉ nếu nó dùng một ít LSD hay thảo dược gây ảo giác (peyote)?
Đáp: Nó đã dùng
rồi.
*****
Chương 10: Sáu Cảnh
Giới
Khi chúng ta giã từ con khỉ thì nó đang ở cảnh giới Địa ngục,
đang cố đấm đá, quào cấu, xông qua các bức tường. Những kinh nghiệm của nó
trong cảnh giới Địa ngục thật khủng khiếp và kinh hoàng. Nó thấy mình đi qua những
cánh đồng sắt nóng đỏ rộng mênh mông, hoặc thấy mình đang bị xiềng xích, trên
người đầy vết lằn đen, da thịt đứt rời ra, hoặc bị nướng chín trong những căn
phòng sắt nung đỏ hoặc bị đun sôi trong những cái vạc lớn. Những ảo tưởng này
và những ảo tưởng khác về Địa ngục sinh khởi từ hoàn cảnh của nỗi sợ hãi bị
giam cầm và thái độ căm thù. Nó có cảm giác bị mắc kẹt trong một không gian nhỏ
không có không khí để thở, không có chỗ để đi lại. Bị mắc kẹt như thế, nó không
chỉ cố gắng phá sập những bức tường của căn nhà giam mà còn cố tự sát để thoát
khỏi cơn đau nhức nhối triền miên. Thế nhưng nó thật sự không thể tự sát; và những
cố gắng tự sát của nó chỉ làm tăng thêm nhục hình. Con khỉ càng chiến đấu để phá
hủy hoặc khống chế những bức tường thành thì chúng càng trở nên kiên cố và nặng
nề, cho đến một lúc nào đó cường độ hận thù của nó hao mòn dần, và thay vì đánh
nhau với những bức tường thì nó dừng lại mọi liên hệ hay nối kết với chúng. Nó
trở nên tê liệt, đông cứng, cuộn mình trong khổ đau mà không còn ý muốn chiến đấu
để thoát ra. Lúc này nó đang trải qua nhiều loại nhục hình khác nhau, liên quan
đến việc phải chịu đông cứng và sinh sống ở những vùng đất hoang vu, khô cằn,
khắc nghiệt.
Tuy nhiên, cuối cùng con khỉ cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi vì
chiến đấu. Sự khốc liệt của cảnh giới Địa ngục bắt đầu giảm dần, con khỉ bắt đầu
nghỉ ngơi, và hốt nhiên nó nhìn thấy khả năng của một cách thức tồn tại thoáng
đãng và rộng mở hơn. Nó khao khát trạng thái mới này. Và đây là cảnh giới Quỷ
đói hay Preta Loka: những cảm nhận về sự nghèo đói và thèm khát được xoa dịu.
Trong cảnh giới Địa ngục nó mãi lo chiến đấu nên đã không có thời gian xét đến
khả năng được khuây khỏa. Giờ đây nó kinh nghiệm một nỗi thèm khát vĩ đại đối với
những điều kiện rộng mở, vui thú hơn, và nó tưởng tượng ra nhiều cách để thỏa
mãn sự thèm khát của nó. Nó có thể tưởng tượng nó đã nhìn thấy một không gian mở
nào đó ở đàng xa, nhưng khi đến gần thì đó chỉ là một sa mạc khủng khiếp, rộng
mênh mông. Hoặc nó có thể nhìn thấy từ
xa một cây thật lớn có nhiều quả, nhưng khi đến gần hơn nó lại phát hiện đó là một
cây khô và có ai đó đang đứng canh chừng. Hoặc nó có thể bay đến một thung lũng
trông rất tươi tốt, phì nhiêu nhưng rồi chỉ thấy toàn độc trùng và mùi hôi nồng
nặc của cây cỏ thối. Trong mỗi lần mơ tưởng nó lại thoáng thấy khả năng được thỏa
mãn, nó cố vươn tới và rồi nhanh chóng thất vọng. Mỗi lần dường như đạt được niềm
hân hoan, thì nó lại đột ngột tỉnh giấc khỏi giấc mơ êm đềm; nhưng sự khao khát
của nó cứ tiếp tục đến độ nó vẫn không thể nào bỏ cuộc; và vì thế nó lại mơ tưởng
nhiều hơn những thỏa mãn trong tương lai. Nỗi đau của sự thất vọng cuốn hút con
khỉ vào một mối quan hệ yêu-ghét với những giấc mơ của nó. Những giấc mơ cuốn
hút nó, nhưng sự tuyệt vọng thì đau đớn đến độ những giấc mơ cũng khước từ nó.
Những nhục hình của nó ở cảnh giới Quỷ đói không lớn bằng nỗi
đau không tìm được cái nó mong muốn; đúng hơn thì chính tự thân sự thèm khát
không được đáp ứng đã làm nó đau khổ. Có lẽ nếu con khỉ có tìm được rất nhiều
thức ăn đi nữa thì nó cũng sẽ không đụng đến; hoặc là nó sẽ ăn hết và rồi lại đòi
thêm. Bởi vì về căn bản con khỉ bị lôi cuốn bởi việc nó bị đói hơn là việc thỏa mãn
cơn đói. Sự thất bại nhanh chóng của
những cố gắng nhằm thỏa mãn cơn đói làm cho nó cảm thấy đói liên tục. Vì thế nỗi
khổ và cơn đói ở cảnh giới Quỷ đói, cũng như thái độ thù hận ở cảnh giới Địa ngục
và những ám ảnh của các cảnh giới khác đã mang đến cho nó một cái gì đó kích động
thu hút tâm trí nó, một cái gì đó cụ thể để nó liên hệ, một cái gì đó khiến nó
cảm thấy chắc chắn rằng nó đang hiện hữu như một con người thật sự. Nó sợ phải từ bỏ sự yên ổn và vui thích này,
sợ phải mạo hiểm đi vào cái thế giới xa lạ của không gian bao la. Nó thích ở lại
trong cái nhà tù quen thuộc của nó dẫu cho nơi chốn này có đau khổ và áp bức đến
thế nào đi nữa.
Tuy nhiên, khi con khỉ bị thất vọng liên tục trong những cố
gắng đạt thành những giấc mơ của nó thì nó bắt đầu trở nên hơi bực tức và đồng
thời lại cam chịu. Nó bắt đầu từ bỏ sự khốc liệt của cơn đói khát và bớt căng
thẳng hơn trong một chuỗi các phản ứng thuộc về thói quen trước thế giới. Nó lờ
đi các phương thức ứng xử khác đối với các kinh nghiệm của cuộc sống; nó chỉ dựa
vào chuỗi phản ứng ở trên, và bằng cách đó nó thu hẹp thế giới của chính nó: một
con chó cố ngửi những thứ nó tiếp xúc; một con mèo không quan tâm đến vô tuyến
truyền hình. Đây là cảnh giới Loài vật, cảnh giới của sự ngu muội. Con khỉ mù tịt
trước thế giới chung quanh; nó từ chối việc khám phá lãnh thổ mới, đeo bám những
mục tiêu quen thuộc và những nỗi phiền bực quen thuộc. Nó say mê cái thế giới
yên ổn, câu thúc, quen thuộc của nó, và vì thế gắn chặt chú tâm của nó vào những
mục tiêu quen thuộc và theo đuổi chúng với quyết tâm cứng nhắc và cố chấp. Vì
thế cảnh giới Loài vật được biểu tượng bởi con heo. Con heo chỉ ăn những gì có
trước mũi nó. Nó không nhìn phải nhìn trái. Nó chỉ đi thẳng tới như thế. Đối với
nó chẳng quan trọng gì nếu phải lội qua một cái ao bùn lớn hay chạm mặt với những
vật chướng ngại khác; nó chỉ việc lủi qua và ăn bất cứ thứ gì phía trước.
Nhưng cuối cùng con khỉ biết được rằng nó có thể chọn lọc niềm
vui và nỗi đau của nó. Nó bắt đầu trở nên thông minh hơn một chút, phân biệt
các kinh nghiệm lạc và khổ trong một cố gắng gia tăng niềm vui và giảm thiểu khổ
đau. Đây là cảnh giới Loài người, cảnh giới đam mê phân biệt. Ở đây con khỉ dừng
lại để xem xét cái nó đang vươn tới là cái gì. Nó trở nên tinh tế hơn, xem xét
các khả năng chọn lựa, suy nghĩ nhiều hơn, và vì thế có nhiều hy vọng và sợ hãi
hơn. Đây là cảnh giới Loài người, cảnh giới của đam mê và tri thức. Con khỉ trở
nên thông minh hơn. Nó không chỉ nắm bắt; nó tìm hiểu, cảm nhận các kết cấu, so
sánh các sự vật. Nếu nó quyết định được nó muốn cái gì đó, nó sẽ cố nắm bắt,
kéo về phía mình và sở hữu cái đó. Ví dụ, nếu con khỉ muốn có một tấm lụa đẹp,
nó sẽ tìm đến những cửa tiệm khác nhau và sờ các chất liệu để xem loại nào
trong đó chính xác là cái nó muốn. Khi nó tìm thấy chất liệu phù hợp với những
suy nghĩ trước đó của nó, nó sẽ sờ mó và nói, "A, đúng cái này rồi. Nó
không đẹp sao? Ta nghĩ đáng mua đấy." Rồi nó trả tiền, mang về nhà, đưa
cho bạn bè xem và bảo họ sờ để biết được giá trị mặt hàng đẹp của nó. Trong cảnh
giới Loài người con khỉ luôn nghĩ cách sở hữu những điều thích thú: "Có lẽ
ta nên mua một con gấu bông để mang vào giường -- một thứ gì đó dễ thương, ôm ấp
được, mềm mại, ấm áp và có lông."
Nhưng con khỉ khám phá ra rằng, mặc dù nó thông minh và có
thể điều động thế giới của nó để đạt được một niềm vui nào đó, nó vẫn không thể
giữ được niềm vui, cũng không thể lúc nào cũng có cái nó muốn. Nó đau khổ vì bệnh
tật, tuổi già và cái chết -- những phiền bực và đủ loại vấn đề. Đau khổ là người
bạn đồng hành thường xuyên của những niềm vui của nó.
Vì thế, hoàn toàn hợp lý khi nó bắt đầu suy ra khả năng của
cõi trời, sự diệt trừ trọn vẹn khổ đau và sự đạt được niềm vui. Phiên bản về trời
của nó có thể là sự sở đắc của cải hoặc quyền lực hoặc danh tiếng cao nhất --
dù thế nào đi nữa nó vẫn muốn thế giới của nó hiện hữu, và nó chỉ biết tập
trung đầu óc vào sự thành đạt và cạnh tranh. Đây là cảnh giới A-tu-la (the
Asura Realm), cảnh giới của các thần linh đố kỵ. Con khỉ mơ về những trạng thái
lý tưởng cao hơn niềm vui và đau khổ của cảnh giới Loài người và luôn luôn cố gắng
đạt được các trạng thái này, luôn luôn cố gắng tốt hơn bất cứ người nào khác.
Trong nỗ lực không ngừng nhằm đạt đến sự hoàn hảo như thế nào đó, con khỉ chỉ
biết nghĩ đến việc đo lường sự tiến bộ của nó, so sánh nó với những người khác.
Nhờ phát triển khả năng kiểm soát cao các ý tưởng, cảm xúc, và vì thế, sự tập
trung của mình, con khỉ có thể điều động thế giới của nó thành công hơn ở cảnh
giới Loài người. Nhưng sự bận tâm về việc phải luôn luôn tốt nhất, phải luôn
luôn làm chủ hoàn cảnh, khiến nó lo lắng và bất an. Nó phải luôn luôn chiến đấu
để kiểm soát lãnh thổ của nó, chế ngự mọi đe dọa cho những thành tựu của nó. Nó
luôn luôn đánh nhau để làm chủ thế giới của nó.
Tham vọng giành được chiến thắng và nỗi sợ thua trận sản
sinh một ý thức về sự tồn tại đồng thời cũng tạo ra sự bực tức. Con khỉ thường
xuyên đánh mất cái nhìn về mục tiêu tối hậu của nó nhưng nó vẫn bị thôi thúc bởi
tham vọng trở thành tốt hơn. Nó bị ám ảnh bởi sự cạnh tranh và thành tựu. Nó
tìm thấy những hoàn cảnh vui thú và hấp dẫn hình như nằm ngoài tầm với của nó
và cố kéo chúng vào lãnh thổ của nó. Khi quá khó để thành tựu được những mục
tiêu của nó, nó có thể tránh xa cuộc chiến đấu và lên án mình đã không chịu rèn
luyện, không chịu làm việc chăm chỉ hơn. Vì thế con khỉ bị kẹt vào thế giới của
các lý tưởng dang dở, của việc tự lên án và nỗi lo thất bại.
Cuối cùng con khỉ có thể đạt được mục tiêu của nó -- trở
thành một triệu phú, lãnh tụ một đất nước, một nghệ sỹ nổi tiếng. Lúc đầu, khi
đạt được mục tiêu, nó vẫn còn cảm thấy hơi bất an; nhưng không sớm thì muộn nó
sẽ bắt đầu ý thức nó đã làm được điều đó, nó có ở đó, ý thức nó đã ở cõi trời.
Rồi nó bắt đầu nghỉ ngơi, trân trọng và ngủ quên trên những thành tựu của mình,
gạt ra ngoài những điều không muốn. Đó là một trạng thái giống như bị thôi
miên, một sự tập trung tự nhiên. Trạng thái hoan lạc và tự mãn này là cảnh giới
Chư thiên (Deva Loka) hay cảnh giới các thần linh. Về hình thức, thân thể các
thần linh được tạo thành từ ánh sáng. Họ không phải phiền não vì những mối lo
trần thế. Nếu muốn làm tình, họ chỉ việc liếc nhìn và mĩm cười với nhau. Nếu muốn
ăn, họ chỉ việc hướng tâm đến các cảnh quang đẹp đẽ là đủ no. Đó là loại thế giới
lý tưởng mà con người mơ ước hiện hữu. Mọi chuyện xảy ra một cách dễ dàng, tự
nhiên, tự động. Bất cứ cái gì con khỉ nghe thấy đều là âm nhạc, bất cứ cái gì
nó nhìn thấy đều rực rỡ, bất cứ cái gì nó cảm nhận đều dễ chịu. Nó đã đạt được
một loại tự thôi miên, một trạng thái tập trung tự nhiên có khả năng loại trừ
khỏi tâm trí những thứ nó thấy bực bội hay không vừa ý.
Rồi con khỉ khám phá thấy nó có thể vượt qua các thú vui nhục
dục và các vẻ đẹp của cảnh giới Chư thiên và nhập vào các trạng thái tập trung
hay dhyana (tầng thiền) của cảnh giới Vô sắc (Realm of the Formless Gods), cảnh
giới cao nhất trong sáu cảnh giới. Nó ý thức rằng nó có thể đạt được niềm vui tinh
thần thuần túy, niềm vui vi tế và lâu dài nhất. Nó biết rằng nó có thể duy trì
liên tục ý thức của nó về một cái ngã kiên cố bằng cách mở rộng những bức tường
đang giam giữ nó để có thể bao trùm hết cả vũ trụ, và qua đó chinh phục được sự
biến dịch và cái chết. Lúc đầu nó bám chặt ý tưởng về không gian vô hạn. Nó
quan sát không gian vô hạn. Nó đang ở đây và không gian vô hạn ở đó và nó quan
sát. Nó định đặt các khái niệm có sẵn của nó lên thế giới, kiến tạo không gian
vô hạn và nuôi sống nó bằng kinh nghiệm này. Rồi giai đoạn kế tiếp là sự tập
trung vào ý tưởng về ý thức vô hạn. Ở đây người ta không chỉ nương vào ý thức
vô hạn mà còn cả sự thông minh nhận biết không gian vô hạn. Vì thế tự ngã quán
sát không gian và ý thức vô hạn từ bộ chỉ huy trung tâm của nó. Đế quốc của tự
ngã hoàn toàn nới rộng, ngay cả nhà cầm quyền trung ương cũng không thể tưởng
tượng lãnh thổ của nó trải rộng bao xa. Tự ngã trở thành một con thú khổng lồ,
vĩ đại.
Tự thân tự ngã bành trướng lớn rộng đến độ nó bắt đầu mất dấu
đường ranh biên giới của lãnh thổ nó. Bất cứ nơi nào nó cố xác định biên giới của
nó thì dường như nó đều để lọt ra ngoài một phần lãnh thổ. Cuối cùng nó kết luận
rằng chẳng còn cách để xác lập biên giới. Không thể nào nhận biết hay tưởng tượng
diện tích của đế quốc nó. Vì bao gồm tất cả nên không thể xác định nó là cái
này hay cái kia. Vì thế tự ngã nương vào ý tưởng không phải cái này không phải
cái kia, ý tưởng cho rằng tự thân nó không thể nào nhận biết hay tưởng tượng
ra. Nhưng cuối cùng ngay cả trạng thái tâm này cũng bị vượt qua khi tự ngã nhận
chân rằng cái ý tưởng vốn không thể nhận biết hay tưởng tượng này tự nó cũng chỉ
là một khái niệm. Vì thế tự ngã nương vào ý tưởng không phải không phải cái này, và không phải không phải cái kia. Ý tưởng không thể khẳng định bất cứ
điều gì cả là cái mà tự ngã nuôi dưỡng, tự hào, tự đồng nhất, và vì thế, sử dụng
đến để duy trì tính chất liên tục của nó. Đây là mức cao nhất của sự tập trung
và thành tựu mà cái tâm mê mờ, cái tâm luân hồi sinh tử có thể đạt đến.
Con khỉ đã tìm cách đạt đến mức độ tối hậu của sự thành tựu;
nhưng nó không thể siêu việt luận lý nhị nguyên làm nền cho sự thành tựu đó. Những
bức tường của ngôi nhà nó vẫn kiên cố, vẫn mang tính chất "cái khác"
theo nghĩa vi tế. Có thể nó đã đạt được sự hòa điệu, sự thanh bình và phúc lạc
tạm thời qua việc kết hợp giả tạo với những dự phóng của nó; nhưng toàn bộ sự vật
đã được gắn chặt một cách tinh tế, một thế giới khép kín. Nó đã trở nên rắn chắc
như các bức tường, đã tựu thành trạng thái Tự ngã tính. Nó vẫn để tâm toàn bộ
vào việc bảo đảm và nâng cao tự thân, vẫn bị mắc kẹt trong các ý tưởng và quan
niệm định sẵn về thế giới và bản thân, vẫn tiếp nhận những ảo tưởng của uẩn thứ
năm một cách trang trọng. Vì trạng thái ý thức của nó đặt nền tảng trên sự tập
trung, trên việc nương vào cái khác, nên nó phải liên tục kiểm soát và gìn giữ
thành quả của nó. "Hiện hữu ở đây, trong cảnh giới Chư thiên mới thoải mái
làm sao. Cuối cùng ta đã kiến tạo được cảnh giới này. Bây giờ ta đã thật sự có
nó. Nhưng hãy chờ một lát ... Có phải ta đã thật sự kiến lập nó? À, nó ở đó.
Vâng, ta đã làm ra nó. Ta đã làm ra nó." Con khỉ nghĩ rằng nó đã đạt được
niết-bàn, nhưng thật ra nó chỉ đạt được trạng thái tạm thời của Tự ngã tính.
Không sơm thì muộn sự thẩm thấu này cũng hao mòn và con khỉ
lại bắt đầu hỗn loạn. Nó cảm thấy kinh sợ, mê mờ, mong manh và lao mình vào cảnh
giới các Thần linh ganh tỵ. Tuy nhiên, nỗi bất an và đố kỵ của cảnh giới này
quá mãnh liệt và con khỉ lại chuyên tâm suy nghĩ điều gì bất ổn đã xảy ra. Vì thế nó trở lại cảnh giới Loài người. Nhưng
cảnh giới Loài người cũng rất đau khổ: sự nỗ lực liên tục nhằm hình dung cái gì
đang xảy ra, cái gì bất ổn đang diễn ra, chỉ làm tăng thêm khổ đau và mê mờ. Vì
thế con khỉ chạy trốn sự chần chừ và viễn ảnh nghiêm trọng của tri thức loài
người và lại lao mình vào cảnh giới Loài vật, nơi nó chỉ biết cặm cụi làm việc
mà không hay biết gì đến chung quanh, giả câm giả điếc trước những thông điệp
đang thách thức sự an toàn của việc bám theo những lối mòn nhỏ hẹp. Thế nhưng
những thông điệp từ hoàn cảnh đó đã bùng nổ và rồi một sự khao khát điều gì đó
thêm nữa lại khởi lên. Nỗi nhớ nhung cảnh giới Chư thiên trở nên rất mãnh liệt
và cường độ của sự chiến đấu để trở lại cảnh giới này lại gia tăng. Con khỉ dựng
lên trong ảo tưởng sự hưởng thụ những niềm vui ở cảnh giới của chư Thiên. Nhưng
sự thỏa mãn rút ra từ ảo tưởng đã đáp ứng được cơn đói thì ngắn ngủi và nó
nhanh chóng nhận ra mình bị đói khát trở lại. Cơn đói tiếp tục và tiếp tục, cho
đến cuối cùng nó bị thống ngự bởi sự bức não của cơn đói liên tục và lại lao
vào một cuộc chiến căng thẳng hơn nhằm thỏa mãn những ham muốn của nó. Sự gây hấn
của con khỉ thì mạnh mẽ đến độ hoàn cảnh chung quanh nó đã đáp trả bằng sự gây
hấn tương đương và một bầu không khí
nóng bức cũng như nỗi sợ bị giam giữ đã phát triển. Con khỉ thấy mình trở
lại trong Địa ngục. Nó đã tìm cách đi một vòng đầy đủ từ địa ngục lên thiên đường
và trở lại. Vòng quay bất tận của sự chiến đấu, thành tựu, tan vỡ và khổ đau là
vòng samsara (luân hồi), là phản ứng giây chuyền thuộc về nghiệp của sự chấp
trước nhị nguyên.
Làm thế nào con khỉ có thể thoát ra khỏi vòng giam hãm tự tạo
dường như là vô tận? Chính cảnh giới Loài người mới có khả năng phá vỡ xiềng
xích của nghiệp và vòng sinh tử luân hồi. Tri thức ở cảnh giới Loài người và khả
năng của hành động phân biệt dọn chỗ cho việc đặt vấn đề về toàn bộ tiến trình
chiến đấu. Con khỉ có cơ hội đặt câu hỏi về nỗi ám ảnh của việc liên hệ đến cái
gì đó, sở đắc cái gì đó, thắc mắc về tính chất kiên cố của những thế giới nó đã
kinh nghiệm được. Để làm được điều này con khỉ cần phát triển một sự tỉnh giác
bao la và sự hiểu biết siêu việt. Sự tỉnh giác bao la giúp con khỉ nhìn thấy
không gian nơi sự chiến đấu xảy ra để nó có thể bắt đầu nhìn thấy tính chất hài
hước và châm biếm của nó. Thay vì chỉ có chiến đấu, nó bắt đầu kinh nghiệm sự
chiến đấu và nhìn thấy sự vô ích của nó. Nó cười vang qua các hoang tưởng. Nó
khám phá thấy khi nó không đánh nhau với những bức tường thì chúng không đáng
kinh tởm và cứng rắn mà thực sự ấm áp, mềm mại và có thể xuyên qua. Nó tìm thấy
rằng nó không phải nhảy từ năm khung cửa sổ hoặc phá vỡ tường thành hoặc ngay cả
nương nhờ chúng; nó có thể đi xuyên qua chúng bất kỳ ở đâu. Đó là lý do tại sao
từ bi hay karuna được mô tả như "trái tim dịu dàng và cao cả."
Sự sáng tỏ và sự chính xác của hiểu biết siêu việt khiến cho
con khỉ nhìn thấy những bức tường theo một cách khác. Nó bắt đầu ý thức rằng thế
giới chẳng bao giờ nằm bên ngoài nó, rằng chính thái độ nhị nguyên của chính
nó, sự tách rời giữa "tự" và "tha" đã tạo nên vấn đề. Nó bắt
đầu hiểu chính nó đang làm cho những bức tường trở nên rắn chắc, rằng nó đang
giam hãm chính nó bằng tham vọng của nó. Và vì thế nó bắt đầu ý thức rằng để ra
khỏi ngục tù nó phải từ bỏ tham vọng trốn thoát và chấp nhận những bức tường
như chúng là.
Hỏi: Điều gì xảy ra nếu ông không bao giờ thật sự cảm thấy
ông phải chiến đấu -- ông không bao giờ đạt đến điểm muốn ra khỏi ngôi nhà? Có
lẽ ông hơi sợ những gì bên ngoài những bức tường, vì thế ông dùng chúng để bảo
vệ.
Đáp: Dẫu sao nếu bạn có thể thiết lập các điều khoản thân
thiện với những bức tường thì sẽ không có bức tường nào nữa. Mặc dù bạn muốn có
những bức tường bảo vệ, những bức tường sẽ không còn ở đó nữa. Một điều rất nghịch
lý là bạn càng ghét bức tường thì nó càng trở nên mạnh hơn và dày hơn; và bạn
càng làm bạn với nó thì nó càng không xuất hiện nữa.
Hỏi: Tôi tự hỏi khổ đau và hoan lạc có ở cùng bình diện như
sự phân biệt tri thức giữa tốt và xấu hoặc đúng và sai không. Có phải sự phân
biệt này là do một thái độ chủ quan?
Đáp: Tôi nghĩ lạc và khổ đều được sinh ra trong cùng một loại
bối cảnh. Thường thường người ta xem khổ là xấu và lạc là tốt, đến độ lạc được
xem như niềm vui và phúc lạc tâm linh, nối kết với thiên đường, trong khi khổ
dính líu tới địa ngục. Vì thế nếu người ta có thể thấy sự phi lý và mỉa mai của
việc cố đạt được niềm vui bằng cách chối bỏ khổ đau, sợ hãi đau khổ cùng cực và
vì thế nỗ lực hướng đến niềm vui, thì điều đó rất buồn cười. Có một sự thiếu thốn
nào đó về ý thức hài hước trong thái độ của con người đối với khổ và lạc.
Hỏi: Trước đây ông có phát biểu rằng chúng ta bị ảo tưởng về
thế giới hiện tượng và muốn thoát khỏi nó. Tôi hiểu Phật giáo nói rằng hiện tượng
giới chỉ là sự trình hiện của tính không, vậy thì có gì để thoát ra khỏi?
Đáp: Vấn đề là trong tri nhận của tự ngã thì thế giới hiện
tượng rất thực, kiên cố, rất vĩ đại. Trong thực tế điều này có thể là ảo tưởng,
nhưng đối với con khỉ ảo tưởng thì hoàn toàn có thật và chắc chắn. Từ cái nhìn
mê muội của nó ngay cả tư tưởng cũng trở nên rất rắn chắc và có thể sờ mó được.
Không hay lắm để nói rằng những ảo tưởng này không hiện hữu vì sắc là không và
không là sắc (form is emptiness and emptiness is form). Hãy cố gắng nói điều đó
với một con khỉ loạn thần kinh. Đối với nó sắc hiện hữu như loại sắc kiên cố và
nặng nề. Sắc có thực đối với nó vì nó bị sắc ám ảnh đến độ nó không còn chỗ nào
để nhìn thấy khác đi. Nó quá bận rộn với việc liên tục cố gắng tăng cường cho
hiện hữu của chính nó. Nó chẳng bao giờ chừa lại một khoảng hỡ. Vì thế chẳng có
chỗ cho niềm hứng khởi, chẳng có chỗ để nhìn thấy các khía cạnh khác, các góc độ
khác nhau của hoàn cảnh. Từ điểm nhìn của con khỉ sự mê mờ là thực. Khi bạn có một cơn ác mộng, vào thời
điểm đó cơn ác mộng là thực, làm sợ hãi kinh hoàng. Mặt khác, khi bạn nhìn lại
kinh nghiệm này, nó hình như đã chỉ là một giấc mơ. Bạn không thể sử dụng hai
loại luận lý khác nhau cùng một lúc. Bạn phải thấy khía cạnh mê mờ một cách
toàn triệt để có thể thấy xuyên qua nó, để thấy sự phi lý của nó.
(Nguyên tác: Cutting through Spiritual Materialism, by Chögyam Trungpa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét