Họ là đôi bạn thân kể từ thời còn học ở đại
học Sorbonne, sau đó, cùng chọn chuyên ngành khảo cổ học. Jabindu, người
Népal; Robinson, người Mỹ. Thời trẻ, cả hai đều say mê công việc khô
khan và vất vả của mình. Dấu chân của đôi bạn đã dẫm khắp những di tích lịch sử
ở hai bờ sông Nile, sông Hằng, Trung Á, Con-đường-tơ-lụa và cả Nam Mỹ...
Họ thuộc hai nền
văn hóa khác nhau. Jabindu yêu những dãy núi băng giá sừng sững như muốn
thi gan với trời đất;
yêu đàn trâu Yark lang thang trên đồng cỏ; yêu thiên nhiên hoang sơ chưa có bàn tay con người uốn nắn, cải tạo; yêu con đường mòn nhỏ quanh co cùng những mái lá bình dị, xanh xanh khói bếp thanh bình; yêu những câu ca, điệu hát hồn nhiên, vô tư của các cô gái từ các nương rẫy và đồng quê yên ả...
yêu đàn trâu Yark lang thang trên đồng cỏ; yêu thiên nhiên hoang sơ chưa có bàn tay con người uốn nắn, cải tạo; yêu con đường mòn nhỏ quanh co cùng những mái lá bình dị, xanh xanh khói bếp thanh bình; yêu những câu ca, điệu hát hồn nhiên, vô tư của các cô gái từ các nương rẫy và đồng quê yên ả...
Robinson thì khác thế. Ông ta yêu những phòng nghiên cứu tối tân
có đầy đủ dụng cụ khoa học hiện đại; yêu những siêu thị mát mẻ, bóng lộn, phong
phú, đáp ứng đủ mọi nhu cầu thiết thân của đời sống; yêu những đại lộ thênh
thang, những cao ốc chọc trời và những quy hoạch vườn cảnh sạch đẹp, phẳng
phiu, ngay hàng thẳng lối; yêu những tiện nghi ăn, ở, mặc; những bảo hiểm và an
toàn về y tế, ngân hàng, nhân thọ...
Chẳng rõ nhân
duyên hoặc do suy nghĩ thế nào, đột nhiên, Jabindu từ bỏ gia đình, bằng hữu, từ
bỏ sự nghiệp nửa chừng, từ bỏ phố thị và phòng nghiên cứu rồi mất tích nhiều năm
trong những dãy núi hùng vĩ ở Himalaya. Còn Robinson thì vẫn đắm chìm, mê
man giải mã các nền văn minh cổ xưa qua những dấu vết của các hiện vật và
di chỉ lịch sử bất cứ ở đâu trên thế giới. Bây giờ niềm say mê ấy không còn
nữa, ông đã mệt mỏi lắm rồi.
Hôm kia, thật là
ngạc nhiên, Robinson nhận được thư của Jabindu do một du khách người Mỹ - vốn
là sinh viên cũ của ông - trao lại, sau cuộc hành hương từ Népal và Tây Tạng
trở về. Thư của Jabindu có một đoạn nội dung như sau: “Từ biên giới Népal, theo
đường bộ hiểm hóc, cheo leo lên Tây Tạng, chừng ba trăm ki-lô-mét - đi bằng
xe trâu kéo - sẽ gặp một ngọn núi thơ mộng màu ngọc bích, có một cây đại thụ lá
đỏ chừng hai ngàn tuổi đứng ngạo nghễ một mình... Từ đó, về hướng Tây chừng vài
ba ki-lô-mét, gặp một con suối; bạn cứ đi mãi lên thượng nguồn... Hãy nhìn vào
các vách đá liền lạc kéo dài, chỗ những mặt phẳng nhẵn bóng, nơi nào có những
ký tự thuộc ngữ hệ Pàrkrit cổ; bạn luồn sâu vào một vài hang động: tôi đang ở đấy
và đang thọ hưởng hạnh phúc từ “nền văn minh cổ xưa” của mình. Bạn hãy đến đây,
sau mùa xuân, khi tuyết đã tan, tôi sẽ tặng bạn một bức tranh vô giá được hoạch
đắc từ xứ sở lạc hậu này.”
Cầm lá thư ố vàng
và nhàu nát trong tay, Robinson phân vân với nhiều nghi vấn. Jabindu đã
là một tu sĩ rồi chăng? Và sao lại là một bức tranh? Ông bạn kỳ quặc này trao
câu đố như thế là có ý nghĩa biểu tượng gì? Nó có liên hệ chút nào đến sự bất
an và vô vàn câu hỏi bức xúc hiện nay của ta? Ôi, đã lâu lắm rồi, người bạn
Châu Á ấy: Ông ta có đôi mắt sâu hun hút của những huyền sử, của những vấn nạn
triết học, của những thắc mắc siêu hình cùng những cực đoan tâm linh khi nhìn
về nền văn minh Tây phương tân tiến, mà ông ta coi là quá đỗi hời hợt và còn
quá non trẻ. Ông nói nguyên văn là, một vị-thành-niên tri thức chưa có độ chín!
Họ đã tranh cãi với nhau rất nhiều lần. Và lần nào cũng bế tắc, cùng đường. Ví
như Jabindu nói:
- Nền văn minh
của các bạn đã đi ngược đầu hơn hai nghìn năm kể từ thời Aristote. Ấy là con đường
của lý trí khôn ngoan nhưng chẳng minh triết chút nào. Là lộ trình của điên đảo
và hủy diệt...
- Không. Nền văn minh nào cũng là sự kế
thừa của những thành tựu khoa học. Là chất xám đặc như keo, là sự thai nghén
khổ hạnh của những tế bào não, là tiếp truyền trí tuệ đỉnh cao của loài người
qua nhiều thiên niên kỷ. Chính nguyên nhân đói nghèo, lạc hậu... của Đông phương
các bạn là do tự mãn, do quay lưng với khoa học và còn do coi thường vật chất
nữa... Một kiểu tự mãn tâm linh cố chấp và kỳ quặc!
Jabindu cười to:
- Tự mãn là đúng-
vì nền văn minh hiện đại của các bạn có nguyên động lực bên trong là dục vọng
và bản ngã chiếm hữu. Đấy là tâm thức sơ khai, gần với bản năng, biểu hiện một
loại người chưa được tiến hóa về tâm linh cho lắm.
Robinson cũng cười.
Lại nhạo:
- Đói nghèo, cơ cực, tối tăm và bệnh
tật... là thực trạng của nền văn minh tinh thần của loại người tiến hóa cơ đấy.
Jabindu trả
miếng:
- Chiến tranh, hận thù, khủng bố, bất an, động
đất và bão lụt...; bất an giữa các giá trị đức lý, xung đột giữa các chủ thuyết
và rối loạn giữa những ý thức hệ... Tất cả những hiện trạng đó đưa đến bất
hạnh, thống khổ và điêu tàn... Đấy chính là thành quả do nền văn minh vật chất ưu
việt mà các bạn hiến tặng cho loài nguời!
Robinson cười
nhạo:
- Vì là ưu việt nên chúng tôi có đời sống
cao sang, tiện nghi vật chất phong phú và choáng lộn. Còn các bạn thì được núi
rừng, được thảo nguyên hoang sơ, được các thôn ấp, nhà cửa tối tăm với gián với
chuột với muỗi mòng; đi đâu cũng thấy phân và rác, những vũng nước tù đọng...; đến
nỗi không có cả một công trình vệ sinh tối thiểu... Đấy không phải là sống, là đời
sống - mà chỉ là cách thức để tồn tại - của những bộ lạc tiền sử thời còn săn
bắt hái lượm...
- Đúng, đúng...
Jabindu gật đầu lia lịa - Nói chung, Đông phương là như thế, nhưng đâu phải là
tất cả, bạn đừng vơ đũa cả nắm! Vì tri túc với cái ăn, cái mặc, cái ở... nên họ
mới xuất sinh được các bậc hiền triết, có sinh hoạt tâm linh phong phú, có đời
sống chan chứa nhân văn, thiên nhiên và tình người; có nội tâm khiết đạm, thanh
bình; không có những cuộc cạnh tranh khốc liệt trên mọi lãnh vực sinh hoạt xã
hội; không có bóp óc, nặn trán, tính toan chạy theo lợi nhuận, năng suất, bạc
tiền hoặc những mục đích trục vật hư dối ở bên ngoài. Hạnh phúc của họ là ở bên
trong, Robinson!
- Bên trong! Làm
gì có cái gọi là hạnh phúc bên trong nếu không do các điều kiện tối ưu ở bên
ngoài quyết định? Ảo tưởng đấy, Jabindu!
- Nó tự có. Nó có thật, Robinson! Bạn
không thể hiểu nổi đâu!
Robinson vuốt
vuốt mũi, châm chọc:
- Khi nào bí là
bạn tung hỏa mù siêu hình rồi chạy trốn, giỏi lắm!
- Bạn chưa bước vào ngưỡng cửa lãnh địa
của sinh hoạt tâm linh thì nói gì cũng như đối thoại với người điếc. Bạn gọi nó
là siêu hình hay là gì gì thì tùy thích. Còn tôi thấy nó rất thực tế. Nó là cái
thực nhất, Robinson!
Cuộc tranh luận, đấu
khẩu nào cũng đưa đến nhị nguyên, hai đàng cố thủ hai biên: Bên này và bên kia;
bên trong và bên ngoài; vật chất và tinh thần... Người phát triển chiêu thức
biến hóa. Người huân công nội lực tiềm ẩn. Không bao giờ ai chịu thua ai. Không
bao giờ họ chịu ngồi chung một chiếu mạn đàm. Và rồi họ châm chọc nhau, đả kích
nhau rất gay cấn, chua chát nhưng không kém phần thú vị, vui vẻ. Tuy nhiên,
Robinson vẫn luôn cho rằng, Tây phương ưu việt là nhờ phát triển khoa học, nhờ
thông tuệ, nhờ không ngừng tìm kiếm và sáng tạo. Đông phương đói nghèo và lạc
hậu... cần phải mượn chiếc đũa thần khoa học của Tây phương. Cần phải được khai
hóa. Jabindu thì bảo là chúng tôi không cần sự ưu ái của các bạn: Sự
khai hóa ngược đời, ngu ngốc ấy! Trầm tư và thiền định mới là hạnh phúc đích
thực của chúng tôi.
Mặc dầu quan điểm đôi bên không dung hợp được
nhưng tình bạn giữa họ với nhau thì thật vô cùng thâm thiết. Cứ hễ xa nhau là
thấy nhớ, như âm với dương. Có một thời hai người còn liên lạc khắng khít với
nhau. Trong lá thư cuối, cách đây hơn mười năm, Robinson cảm nhận là dường như
bạn mình đã có lối thoát, đã có con đường nào đó rất sáng tỏ. Còn ông, càng đi
sâu nghiên cứu các nền văn minh cổ xưa chừng nào thì những lý luận ngoan cố,
phản khoa học của Jabindu càng trở nên thuyết phục. Qua những kết quả tìm thấy
trên những đống tro tàn đổ nát của lịch sử, dù bia mộ bí mật, chữ viết tượng
hình hay các ký hiệu, biểu tượng thần, thánh, người, vật phức tạp... Robinson đều
đi đến một hệ luận chung quyết, một kết quả giống nhau: Sau cái khuôn võ hào
nhoáng của văn minh, thời nào cũng thế, thường tồn tại những thảm trạng đen
tối, những phản ứng phụ nguy hiểm! Cũng như sự thực của nền văn minh đương đại:
Con người ngày nay, ngày càng trở nên máy móc và tha hóa. Mọi giá trị nhân
sinh, mọi nền tảng đức lý đều điên đảo và rệu rã. Trái tim và tâm hồn của công
dân thời đại hạ-nguyên-tử đã trở nên khô cứng vì họ phát huy hết công
suất tối đa cho cái cỗ máy lý tính. Những tệ trạng xã hội tung rải mầm độc cho
tuổi trẻ và các thế hệ tương lai. Chiến tranh và nạn khủng bố đe dọa mạng sống
của cư dân trái đất. Người ta đã hủy phá thiên nhiên một cách tàn bạo, không thương
tiếc; môi trường của hành tinh xanh bị nhiễm ô, bị vấy bẩn thối tha do hóa chất
và rác thải công nghiệp. Khói, bụi, vi trùng, siêu vi, khí độc... đầy đặc trong
không gian, máu huyết, óc não, trong hơi thở và cả trong trái tim người! Tất cả
đấy không được gọi là sự điêu tàn thê lương của noạ tính, của hố thẳm, của hủy
diệt là gì? Nền văn minh hiện nay- niềm tự hào của ông - kết quả cuối cùng sẽ
bi thảm như thế, như nó đã từng diễn ra trong lịch sử. Robinson chợt nhớ bạn
một cách da diết. Jabindu đã có lý. Đúng là ông bạn của mình thuộc loại người
tiến hóa bậc cao. Bậc thầy siêu việt. Hay là những tiên tri thời đại?
Lá thư với những
dòng chữ vẽ một địa chỉ mơ hồ, nhưng Robinson có bổn phận phải tìm cho ra. Và
ông đã tìm ra. Những vách đá và những hang động huyền bí, hoang sơ dường như chưa
có vết chân người. Nắng, bụi, mồ hôi, dốc cao, vực sâu... như trò chơi oái ăm,
gian lao muốn thử thách ý chí và nghị lực của Robinson từ ông bạn già Đông
phương tinh nghịch. Từ từ, chậm rãi, Robinson luồn sâu mãi vào các hang động.
Đây rồi! Một hình hài gầy khô như que củi đang tọa thiền trong ánh sáng nhờ
nhờ, nhưng Robinson vẫn nhận ra vóc dáng quen thuộc của Jabindu. Ông đứng lặng
rất lâu. Lẽ nào đây là cứu cánh của kiếp sinh tồn? Lẽ nào đây là hình ảnh của
người đã tìm ra niềm bình an vĩnh cửu? Trong không gian tịch mịch, lắng đọng...
thời gian như lùi lại cả hàng ngàn năm, tri giác ông chợt như khói như sương,
mỏng manh và bất thực. Những ký tự không phải Pàli, không phải Sanskrit đầy đặc
nơi những vách đá cho Robinson hiểu rằng: Jabindu đã thâm ngộ một điều gì đó
rất phi thường ở đây. Có lẽ là một phép luyện tâm của một nền văn minh cổ xưa
nào còn lưu lại chăng?
- Rồi bạn sẽ biết
chúng nói gì! Jabindu đứng lên từ trong bóng tối, phá tan sự yên tĩnh - Chúng
là một loại cổ ngữ pha trộn phức hợp, chưa hoàn chỉnh, sau này thành ngôn ngữ
Pàrkrit. Tôi đã đọc được chúng. Hóa ra là kinh Phật. Nếu muốn nghiên cứu, bạn
sẽ có những tấm dập âm bản tương đối rõ ràng. Này Robinson! Bạn khỏe chứ?
Cả hai ôm lấy nhau, siết chặt. Jabindu dìu bạn mình đến một
hóc hang động có ánh sáng, đốt thêm một ngọn đèn từ mỡ trâu Yark. Trong không
gian yên tĩnh, cổ sơ... Jabindu đãi “người bạn văn minh” của mình nước mưa
và trái cây rừng. Bây giờ, Robinson mới nhìn thấy rõ Jabindu hơn: Khuôn
mặt queo quắp, rắn đanh, gầy ốm, xương xẩu, tóc râu lún phún muối tiêu...;
quàng trên người một tấm vải màu cứt ngựa quệt thổ hoàng. Đặc biệt là đôi mắt
cực sáng, biểu hiện một sức sống nội tâm mãnh liệt. Trước mặt Robinson là hình
ảnh một đạo sĩ sống cách đây vài nghìn năm. .. Như cổ tích. Như huyền sử...
- Mừng cho bạn đã
được bình an! Robinson đọc được điều đó và cảm thán mở lời.
Jabindu cười nhẹ:
- Còn hơn thế
nữa, Robinson! Tôi đã không còn bất cứ một câu hỏi nào. Tất cả trí và tâm đều đã
trở nên vắng lặng.
- Tuyệt -
Robinson nắm chặt bàn tay xương xẩu và nhìn sâu vào mắt người đối diện - Hồi xưa,
bạn có lý, Jabindu!
Vị sa-môn gật đầu
chẳng khiêm tốn tí nào, rồi lại lắc đầu:
- Bây giờ, không
phải là cái lý, dù hữu lý - mà là cái thực - Robinson!
Robinson tin bạn
mình nói thật, nhưng ông vẫn chưa biết đó là cái gì, bèn nhích tới, có vẻ chăm
chú, rồi hỏi:
- Nó là cái gì?
Có phải là hiểu và biết không, Jabindu?
- Không phải thế.
Phạm trù của cái hiểu và biết rất giới hạn. Nó luôn luôn có điều kiện và có đối
tượng... Cái hiểu và biết ấy là quá khứ, là thời gian và sinh tử, Robinson!
- Tôi có thể chưa
hiểu. Vậy nó có phải là trạng thái không?
- Lại càng không,
Robinson! Trạng thái nào, dù an lạc tuyệt đỉnh, chúng cũng chảy trôi, không có
một điểm tựa thực hữu, chỉ là sự hội tụ mong manh của các năng lượng!
Robinson nhăn
mày:
- Vậy nó là cái
gì?
Jabindu trầm ngâm
một lúc rồi nói:
- Dù tôi nói nó là cái gì - thì cả bạn, cả
tôi cũng sẽ mãi đóng đinh chân nhau, không đi ra khỏi cái phạm trù của hiểu và
biết. Chúng ta vẫn bị nó quy định và giới hạn từ khi bắt đầu có nhận thức. Lý
do tôi biên thư mời bạn đến đây cũng vì lẽ đó...
Nói xong, Jabindu
bước tới vách đá, thò tay vào khoảng hở bên trong, lấy ra một bức tranh rất cổ,
lồng trong một khung gỗ đen sì được bọc kỹ lưỡng bằng một tấm da dê rất mịn...
Bụi và màn nhện bám đầy. Vừa lau chùi khung hình, Jabindu vừa nói chuyện:
- Thầy tôi là đệ
tử chân truyền của đức Mahà Kassapa, người đã duy trì mạng sống hơn hai
ngàn năm nay chỉ với một mục đích duy
nhất là bảo vệ Tam Tạng trên vách đá, đồng thời chờ đợi một người đệ tử có căn
cơ để trao truyền sở học cùng kinh nghiệm tâm linh tu chứng. Tôi là người được
chọn. Bạn tin hay không tin điều tôi vừa nói cũng chẳng quan hệ gì! Kinh nghiệm
tâm linh tu chứng nhận được từ thầy, tôi đã trao truyền cho một nhóm đệ tử;
hiện giờ họ đều đang ẩn cư, chờ lúc nào thuận duyên sẽ đi hóa độ nhiều phương.
Còn lưu hậu và hoằng truyền kinh văn thì tôi sẽ trông cậy ở nơi bạn vậy...
- Tôi hiểu rồi.
Tất là giải mã động kinh văn này rồi dịch nó ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, in
ấn rồi lưu truyền. Việc ấy tuy khó nhưng không phải không làm được. Bằng hữu
của chúng ta có rất nhiều học giả ưu việt và nhiệt tình. Họ làm việc rất khoa
học và rất nghiêm túc...
- Tôi cũng tin là
như vậy.
- Thế còn bức
tranh này?
Jabindu dựng bức
tranh ở chỗ có nhiều ánh sáng nhất. Tranh gần như là tượng trưng, ấn tượng hay
siêu thực? Trông thì rất cổ xưa mà cũng rất hiện đại. Khó biết chất liệu giấy.
Mực màu thì dường như được mài ra từ các loại ngọc; còn nội dung thì chúng chìm
ẩn, lấp lánh đa sắc với nhiều hình tượng xen lẫn rất khó cảm nhận, rất khó
thông hội...
- Nó là cái gì?
Robinson không đừng được, cất tiếng hỏi.
Jabindu nở nụ cười như hoa sen hé nhụy:
- Nếu là gì thì
chúng ta lại loay hoay nơi cái chỗ hiểu và biết mất thôi!
Robinson cười
xòa:
- Vậy tôi sẽ
không hỏi nữa, chỉ nghe thôi!
Jabindu chậm rãi
nói:
- Tác giả bức
tranh này là ai thì thầy tôi không nói, nhưng người đã cất giữ như một bảo vật.
Nghe đâu là của một nhà sư nghệ sĩ vô danh, trong cơn thiền định xuất thần, ông
đã làm nên tuyệt tác ấy. Mọi ý nghĩa của nó nằm ẩn sâu hút bên sau mọi đường
nét, mọi sắc màu biểu tượng. Bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông.
Chính ánh sáng và dương khí của mặt trời chiếu dọi và tác động vào thì màu
sắc của các loại ngọc mới ửng lên, mới hiển hiện đúng sắc độ cần thiết, đúng đích
thực cái điều mà bức tranh muốn nói... Còn nếu không, bức tranh chỉ còn là một
bức tranh đẹp, cổ xưa và quý báu, vậy thôi... Bạn có thể bán nó với giá mấy
triệu mỹ kim!
Jabindu dí dỏm.
Cả hai cùng cười xòa. Sau đó, Jabindu cốt giữ một khoảng lặng để cho Robinson
săm soi nhìn ngắm bức tranh; và cũng để cho ông ta tha hồ cảm nhận, tha hồ
tưởng tượng...
Thời gian trôi
qua... trôi qua... Robinson phát biểu:
- Thật lạ lùng.
Khi tôi nghĩ nó là một bức tranh phong cảnh thì nó hiện ra đúng là một bức
tranh phong cảnh. Một phong cảnh kỳ tuyệt, dường như là không có thật ở trên đời:
Một cảnh thần tiên nào đó, mà, các nàng Apsara và hoa và lụa với những
vũ điệu dập dờn, uyển chuyển, nhẹ nhàng trong khúc hát nghê thường vô cùng
thanh khiết. Nó thanh khiết... đến từng hạt bụi, hạt sương... Khi tôi nghĩ nó
là một biểu tượng tôn giáo thì tôi thấy cả hằng sa đức Phật và Thánh chúng giữa
những vầng mây ngũ sắc, trên những bảo tọa hoa sen... tất cả đều tịch lặng,
thanh trong và vô nhiễm...
- Đúng vậy!
Jabindu tiếp lời- Còn nữa, còn nhiều nữa... Cứ hễ chúng ta nghĩ là gì thì nó sẽ
hiện ra như thế, đúng như tâm và tưởng của chúng ta vẽ ra. Hằng trăm, hằng ngàn
cảnh... nhưng vẫn chưa hết, chưa đủ... Tuy nhiên, tất cả chúng chỉ là ảo ảnh,
cái do ta tưởng tượng mà nên. Còn cái thực thì bức tranh phải được quay mặt về
hướng Đông. Rồi, cứ thế mà nhìn ngắm, chẳng rõ thời gian bao lâu, một lúc nào đó,
trong một sự tình cờ thếø nào đó, cái thực nó sẽ hiện ra, đúng như mà nó
là...
Robinson trầm tư
giây lâu, thắc mắc:
- Tôi tin lời
bạn. Nhưng cái thực ấy để mà làm gì? Nó ích dụng gì cho tôi, Jabindu?
- Lúc ấy bạn sẽ
không còn một câu hỏi nào nữa. Bạn sẽ khai mở được mọi bế tắc, sẽ vượt qua phạm
trù của hiểu và biết.
Robinson tự nghĩ: “Nền văn minh tin học hiện nay dựa trên những ký
hiệu, mã số tạo nên muôn trùng sinh hoạt ảo, sẽ rơi vào hố thẳm, đấy là điều
chắc thật. Sự tìm kiếm của thời đại hạ nguyên tử cũng đang hoang mang, cùng đường.
Hạt hay sóng cũng chỉ là năng lượng. Thực thể tối hậu là gì thì khoa học cũng đang
còn ngơ ngác. Điểm tựa cuối cùng của nhân loại vẫn đang còn là ẩn số. Nhưng bây
giờ, ở đây, trong không gian cổ sơ này, sự bình an của bạn ta rõ là một sự thực
không cần bàn luận, lý giải...”
Jabindu nắm chặt hai vai bạn, lay mạnh:
- Hãy mang bức tranh này về phương Tây, Robinson! Chỉ với một yêu cầu
duy nhất: Bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông. Đấy là sở nguyện của
tôi như để đáp tạ tình bạn cố tri, và đồng thời, tri ân bạn trong công trình
kinh điển gian khổ sau này.
Ông thở một hơi nhè nhẹ rồi tiếp:
- Sau khi trao bức tranh, tôi chẳng còn việc gì để làm trên cuộc đời này
nữa. Mong rằng, bạn sẽ được bình an. Đây có thể là lời vĩnh biệt, Robinson!
Lưu luyến chưa vội từ giã, nấn ná suốt mấy ngày, Robinson mới bùi ngùi
cất bước ra đi. Khi máy bay lên độ cao, nhìn xuống những dãy núi trùng điệp,
hoang sơ, mây, tuyết và khói sương dật dờ... Robinson vẫn chưa tin là vào thế
kỷ hai mươi mốt này, lại còn có những bậc minh triết ở ẩn, khước từ dường như
tuyệt đối ánh sáng văn minh, sống an nhiên và tự tại với nhu cầu thanh bạch của
một cánh chim rừng, dường như không cần một đòi hỏi vật chất nào! Cái gọi là đời
sống tâm linh thuần túy không phải là hoang đường và phi thực!
Khi đã ở trong ngôi biệt thự cao sang với những tiện nghi hiện đại nhất
ở Los Angeles, Robinson còn mang cảm giác như mình đã từ mấy nghìn năm
lịch sử trở về. Việc đầu tiên là ông mở vội bức tranh huyền bí, kiểm tra lại
xem việc vừa xẩy ra là thực hay là mộng. Bức tranh sờ mó được, là có thực. Nhưng
câu nói cuối cùng của Jabindu thì đúng lời trăn trối có cánh và có lửa. Chúng
hàm tàng nội lực tu chứng cùng nhiều ẩn ý. Việc phiên dịch toàn bộ Tam Tạng là
một công trình dài hơi, nhưng chưa phải là cấp bách. Tìm một vị trí thích hợp để
tôn trí bức tranh là việc quan trọng, ông không thể phụ lòng Jabindu được. Lại
nữa, nó là sự bình an của chính ông.
Mang bức tranh bước vào thư phòng, Robinson nhìn hướng mặt trời
rồi ngắm nghía. Một lúc, ông bước tới, bước lui, nhìn từng cửa sổ, nhìn các
phòng ốc kế cạnh, nhìn ra vườn... Lát sau, ông lấy la bàn ra xem, đo đạc, tính
toán... Robinson chợt suy nghĩ rất lâu. Ông như đăm chiêu, bất động...
Suốt hai ngày, Robinson không muốn ăn, không muốn ngủ; ông như ở trong
trạng thái không phải tỉnh, không phải mê. Ngày thứ ba, Robinson vùng dậy,
lấy điện thoại đăng ký máy bay trở lại Népal...
***
Dường như Jabindu biết trước việc xảy ra, nên lần này ông đón bạn từ dưới
chân núi với nụ cười rất lạ. Jabindu dìu bạn từng bước một, thân thiện, ân
cần... Nhưng Robinson thì rất nóng vội:
- Không thể được, Jabindu!
- Bạn nói cái gì không thể?
- Bức tranh mà bạn cho, không thể treo ở đâu được cả!
- Tại sao?
Đợi cho đến khi trở lại hang động, Robinson mới nói rõ lý do:
- Này nhé, Jabindu! Đầu tiên, bước vào thư phòng, tôi nhắm hướng Đông để
tôn trí bức tranh. Muốn chính xác phải cần đến la bàn. Nếu đúng là hướng Đông
thì thư phòng phải quay chệch một góc gần ba mươi độ. Cũng được, không sao. Nhưng
nếu thiết kế lại phòng sách thì phòng ngủ, phòng bếp, phòng nghiên cứu, phòng
khách, phòng ăn... hoàn toàn phải thay đổi, phải vẽ lại hết. Giả dụ mất nửa
triệu đô-la để làm việc ấy thì cũng xứng đáng. Thấy được cái thực với giá ấy
thì quá rẻ. Tuy nhiên, khi nhìn ra vườn thì tôi mới thật sự bối rối, hoảng
kinh. Nếu toàn bộ hướng nhà thay đổi thì khu vườn cũng phải thay đổi. Thay đổi
khu vườn của mình, hy sinh được, nhưng ảnh hưởng các căn nhà và những khu vuờn
bên cạnh thì phải làm sao! Có thể thương lượng với họ được không? Rất khó. Nhưng
khó hơn là con đường trước mặt - lối chính vào thành phố - sẽ biến thành kỳ
quặc. Ông thị trưởng, hội đồng kiến trúc sư, các nhà quy hoạch cũng như dân
chúng, không ai cho phép một người bất bình thường hoặc một gã tâm thần làm
việc điên rồ đó...
Nghĩ lấy hơi một chút, Robinson
tiếp tục:
- Càng nghĩ, tôi càng bàng hoàng, Jabindu! Nếu tôi treo được bức tranh hướng
mặt về phía Đông thì tôi phải thay đổi cả thành phố Los Angeles...
Jabindu có vẻ ngạc nhiên:
- Kinh khiếp đến thế cơ à?
- Chưa đâu, Jabindu! Nếu thay đổi thành phố Los Angeles thì các xa
lộ, đại lộ, đường cao tốc Bắc, Nam, Đông, Tây đều phải thay đổi. Theo đó,
cả nước Mỹ phải thay đổi...
Jabindu gật đầu, nhíu mày:
- Đúng là như thế thật!
- Chưa đâu, Jabindu! Khi bản đồ nước Mỹ mà được vẽ lại thì các sân bay,
những trạm, những ga, những bến tàu sẽ tìm chỗ khác thích hợp hơn. Và thế là sự
rối loạn sẽ như đĩa xúp hùm-bà-lằng. Nước Mỹ sẽ có chiến tranh. Thế giới chiến
tranh: Chiến tranh kinh tế, chiến tranh thương trường, chiến tranh dầu hỏa,
chiến tranh xây dựng, chiến tranh thủ đoạn, man trá và lọc lừa... Nói tóm gọn
một câu: muốn treo được đúng hướng bức tranh quỷ quái này thì phải thay đổi cả
thế giới...
Robinson thở dài, đưa cả hai tay lên trời như đầu hàng, bỏ cuộc. Sau đó,
trân trọng trả lại bức tranh cho Jabindu:
- Món quà trân quý này, tôi không có duyên phần, xin hoàn về cố chủ!
Jabindu hững hờ đặt tay lên bức tranh, nhìn thẳng vào mắt Robinson, cất
giọng trang nghiêm:
- Cũng tương tự thế là cái thấy, này Robinson! Cái thấy làm thay đổi
thế giới, thay đổi toàn bộ thế giới...
- Cái thấy ấy... làm sao?
- Là thay đổi cách nhìn. Nó vượt qua phạm trù của hiểu và biết. Nó
chính là tuệ giác. Cái thấy của tuệ giác...
Robinson tròn xoe mắt, ngơ ngác với những dấu hỏi tận cuối chân trời.
Giọng nói của Jabindu từ miền chân không của ý tưởng, vẫn an nhiên, trầm
ấm rót nhẹ vào tai:
- Chính tư, tưởng và thức là thủ phạm làm cho cái nhìn của chúng ta bị
sai lệch, đảo điên. Cái hiểu và biết của chúng ta về thế giới, nhân sinh...
cũng từ đó mà phát sanh sai lầm, cục bộ! Triết học, các hệ thống tư tưởng, các
ý thức hệ... từ xưa đến nay đã đưa ra những phán quyết chủ quan, tự thị... đã đẩy
nhân loại đến chỗ tranh chấp, tương tàn và hủy diệt nhau. Nền văn minh cà-rốt,
bột mì, thông tin, điện tử, các giá trị ảo... không giải quyết nổi cái quằn
quại, đau khổ, bấn loạn của tinh thần con người. Phải xoáy cái nhìn vào bên
trong, Robinson! Phải thay đổi cái nhìn ấy: Một cái nhìn trạm nhiên, trong
suốt, vô vi, mới mẻ... không qua phân tích, lý giải, không bị nô lệ bởi tư, tưởng
và thức, này Robinson!
Robinson có vẻ trầm tư, nhưng vẫn nghe rõ mồn một lời của Jabindu vang
vọng giữa động sâu, như ở ngoài không-thời-gian:
- Toàn bộ thế giới đang ở nơi tâm trí bạn đều là sản phẩm của tri
kiến quá khứ. Đã cũ kỹ. Đã ám khói. Đã úa vàng. Đã chết rồi. Bạn không dám thay
đổi thế giới, thì vĩnh viễn, không bao giờ có được cái thấy tự tại, giác ngộ,
tinh khôi ấy đâu, Robinson!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét